Cuộc chiến đấu giải phóng nhà lao thừa phủ Tết Mậu Thân năm 1968 ở Huế

15:11 11/09/2008
PHAN VĂN LAITrong cuộc tổng tiến công và nổi dậy năm 1968, Huế đã nổi lên là một chiến trường xuất sắc, được Đảng, Chính phủ tặng danh hiệu: “Tiến công nổi dậy, anh dũng kiên cường”, được Bác Hồ khen ngợi: “Bác rất vui mừng vừa qua Huế đã đánh giỏi, công tác giỏi, thu được nhiều thắng lợi to lớn” và được cả nước tự hào về Huế.

Thực hiện chủ trương tiến công ở Huế, trong đó có mục tiêu rất trọng yếu phải nhanh chóng chiếm lĩnh nhà lao Thừa Phủ với yêu cầu không để kẻ địch sát hại hàng ngàn cán bộ, cơ sở cách mạng của ta đang bị chúng giam giữ. Từ bước chuẩn bị các đồng chí lãnh đạo an ninh khu và thành phố Huế đều trăn trở, lo lắng toan tính một kế hoạch thật hệ trọng, một bài toán hết sức khó khăn, phức tạp và khó lường. Với phong cách chỉ đạo sâu sát, cụ thể và kinh nghiệm chỉ huy chiến đấu ở chiến trường, đồng chí Lê Minh - Phó Bí thư khu uỷ, Tư lệnh Bộ chỉ huy chiến dịch toàn khu Trị Thiên Huế - Trưởng ban an ninh khu, đồng chí Nguyễn Đình Bẩy - Phó trưởng ban thường trực an ninh khu, đồng chí Tống Hoàng Nguyên - Phó trưởng ban an ninh khu, Thường vụ Thành uỷ, Trưởng ban an ninh thành phố Huế đã bàn bạc thống nhất một kế hoạch chỉ đạo cơ sở điệp báo của an ninh và của Thành uỷ trong thành phố, kể cả tổ chức của Đảng trong nhà lao Thừa Phủ nắm tình hình trong nhà lao. Chỉ sau một thời gian, cơ sở đã cung cấp khá đầy đủ tài liệu về Ban giám thị nhà Lao, lực lượng, quy luật và bố trí canh phòng của địch; phân loại số người đang bị giam giữ; đặc biệt cơ sở báo cho ta biết chúng đã cài sẵn hệ thống mìn clây-mo xung quanh các phòng giam để sẵn sàng bấm nút tiêu diệt tù nhân nếu bị cách mạng tấn công.
Nhiệm vụ giải phòng nhà lao Thừa Phủ được lãnh đạo an ninh khu báo cáo với khu uỷ phân công đồng chí Nguyễn Đình Bẩy vừa tham gia ban chỉ đạo cánh Nam Huế, vừa trực tiếp làm mũi trưởng, mũi tấn công khu vực phía tây nam Huế, trong đó có mục tiêu nhà lao Thừa phủ. Lực lượng mũi tấn công này có một tiểu đoàn quân chủ lực số hiệu 815, 1 tiểu đoàn đặc công, 1 đại đội biệt động, 1 phân đội trinh sát vũ trang thành phố Huế và một số cán bộ an ninh khu. Theo kế hoạch, 8 giờ sáng ngày mở đầu chiến dịch mũi tiến công này đã chiếm lĩnh được hầu hết các mục tiêu trọng yếu như Toà tỉnh Trưởng, Toà đại biểu chính phủ bắc Trung Nguyên Trung phần, Ty Bình Định nông thôn, các cơ quan CIA và nơi ở của cố vấn Mỹ đóng trên địa bàn... Nhưng làm sao không khỏi lo âu, day dứt vì đã qua 2 ngày vẫn chưa được giải quyết được dứt điểm mục tiêu nhà lao Thừa Phủ, tính mạng hàng ngàn đồng chí, đồng đội của mình đang treo trên sợi tóc, nếu không được giải cứu sẽ có tội với Đảng, với nhân dân và anh em mình. Đồng chí Nguyễn Đình Bẩy - Ban chỉ huy Tiểu đoàn 815 và mọi cán bộ, chiến sĩ đều nung nấu và suy tư như vậy.
Với quyết tâm giải phóng nhà lao Thừa Phủ, tối ngày thứ ba (tức ngày mồng 4 tết) đồng chí Nguyễn Đình Bẩy quyết định triệu tập một cuộc họp khẩn cấp toàn đơn vị tại sân trường Đồng Khánh để cán bộ, chiến sỹ hiến kế giải phóng nhà Lao. Ngồi giữa sân trường trong đêm tối giá lạnh, sau khi nghe đồng chí Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 815 trình bày ngày qua đơn vị đã tấn công nhưng không đạt yêu cầu, cả đoàn người đều im lặng đến nghẹt thở, hy vọng hôm nay sẽ tìm ra một cách đánh mầu nhiệm để có thể chiếm lĩnh được mục tiêu mà vẫn bảo toàn được người của ta không bị địch sát hại, tránh được thương vong cho bộ đội. Với bản lĩnh và kinh nghiệm của người cán bộ chỉ huy đã từng trải qua chiến trận, đồng chí Nguyễn Đình Bẩy với giọng nói xúc cảm của người con xứ Huế, đồng chí đã động viên cán bộ, chiến sĩ của mình tiếp tục nêu cao ý chí tiến công, không bi quan chán nản, không lùi bước trước khó khăn, khắc sâu lòng căm thù địch, khơi dậy tình thương yêu đồng chí, đồng đội của mình đang trong lúc lâm nguy và dõng dạc khích lệ: “Đêm nay chúng ta hứa với nhau dù có hy sinh cũng phải giải cứu cho được anh em mình đang bị giam cùm trong ngục tù, nhất định không để chúng sát hại đồng chí, đồng đội của mình”. Nói đến đây, bỗng trong đêm tối có tiếng phát ra: “Chúng ta nhất định phải giải phóng nhà lao trong đêm nay”; rồi có tiếng xì xào hỏi lại: “Vậy, ta đánh bằng cách nào? bằng phương tiện gì? Trong khi cơ số đạn của đơn vị đã cạn, chưa được bổ sung”. Được cán bộ, chiến sĩ đồng lòng và quyết tâm, như thế cờ đã mở, đồng chí Nguyễn Đình Bẩy tiếp tục nói lên suy nghĩ về cách đánh của mình. Đồng chí nhắc lại trận đánh ngày qua chúng ta mới đánh bằng đòn quân sự mà chưa vận dụng đầy đủ phương châm đánh địch bằng 3 mũi giáp công, nay ta đánh bằng cả quân sự, chính trị, binh vận nhất định sẽ đem lại hiệu quả, trong khi ta đang ở thế thắng, thế áp đảo, bọn cai ngục và binh lính của chúng đang hoang mang, dao động đã qua 3 ngày không thấy quân Ngụy đến cứu viện. Đồng chí Nguyễn Đình Bẩy vừa dứt lời, trong bóng tối nhiều người đứng lên đồng thanh tán thành, khí thế sôi động hẳn lên. Ban chỉ huy tiểu đoàn đồng tình triển khai kế hoạch từ bên ngoài tấn công chính trị, binh vận vào trong nhà Lao và thống nhất hẹn nhau đúng 3 giờ sáng ngày 4/2/1968 tập kết tại vị trí đã định để đúng 3giờ 30’ sẽ nổ súng.
Ngay sau cuộc họp, đồng chí Nguyễn Đình Bẩy phân công cho đồng chí cán bộ thông tấn xã Việt , được bố trí theo cánh quân để đưa tin. Suốt đêm đó, đồng chí này đứng trên thành nhà của trường ở sát nhà Lao, dùng loa thông báo tin chiến thắng của cách mạng trong toàn miền . Tin quân giải phóng đã chiếm thành phố Huế và các Quận lỵ, tuyên truyền chính sách khoan hồng nhân đạo của cách mạng, kêu gọi binh lính đang canh gác nhà lao bỏ súng trở về với cách mạng, đồng thời động viên anh chị em đang bị địch giam giữ xiết chặt hàng ngũ cùng đứng lên phá gông cùm của địch để giải phóng cho mình.
Nhờ kiên trì thực hiện công tác tuyên truyền, địch vận đã có tác dụng và hiệu quả thiết thực đến tinh thần tư tưởng hàng ngũ địch trong nhà lao. Vào 1 giờ sáng 4/2/1968, một nguỵ quân, từ trong nhà lao trốn trại giam ra ngoài theo một đường cống thoát nước thì gặp bộ đội ta và được dẫn về chỉ huy sở. Qua khai thác, nguỵ quân này cho biết: “Anh, chị em trong nhà lao đang sẵn sàng chờ quân giải phóng để phá nhà lao; bọn cai ngục và lính canh gác đang rất hoang mang vì không thấy quân nguỵ đến cứu viện, hiện có một đường cống thoát nước từ trong nhà lao ra, có thể di chuyển mỗi chuyến 3 người theo hàng một, nếu quân giải phóng tin tôi, tôi tình nguyện dẫn đường”. Kiểm tra lời khai và thái độ của nguỵ quân này là có cơ sở, đồng chí Nguyễn Đình Bẩy và ban chỉ huy tiểu đoàn thống nhất kế hoạch dùng nguỵ quân này dẫn đường, kết hợp bộ đội ta bao vây từ bên ngoài với lực lượng theo đường cống thoát nước tiến nhập vào bên trong mở cổng nhà lao để quân ta tấn công. Đúng giờ quy định, nguỵ quân này dẫn 2 chiến sĩ của ta theo đường cống thoát nước vào đến trung tâm nhà lao, bắn 3 phát súng làm hiệu lệnh, từ cổng chính quân ta xung phong tràn vào tấn công, bị đánh bất ngờ bọn cai ngục và binh lính canh gác trại hoảng sợ và có phần đã được ta tuyên truyền, địch vận nên chúng không phản ứng và đầu hàng. Quân ta không ai bị thương vong, lập tức anh chị em trong trại nổi dậy reo hò, phá cửa buồng giam và bộ đội ta cũng kịp thời phá khoá các buồng xà lim giải thoát cho cán bộ, đảng viên của ta bị địch giam. Chỉ trong vòng chưa đầy ba mươi phút, toàn bộ 2.300 cán bộ, chiến sĩ, cơ sở cách mạng được đưa về tập kết tại địa điểm số 5, đường Lê Lợi. Đến 5 giờ sáng, 500 thanh niên, bộ đội, du kích hăng hái tham gia chiến đấu được lựa chọn bổ sung ngay cho bộ đội và lực lượng an ninh tiếp tục cuộc chiến đấu trong thành phố. Trong số này có người đã anh dũng hy sinh ngay trong lòng thành phố qua các trận chiến đấu ác liệt, giành giật với kẻ thù từng dẫy nhà, đường phố 26 ngày đêm làm chủ thành phố thân yêu. Số anh em còn lại được bàn giao cho bộ phận công tác hậu phương tiếp tục bổ sung cho các lực lượng.
Cuộc chiến đấu giải phóng nhà lao Thừa Phủ năm 1968, đến nay đã trải qua 40 mùa xuân nhưng vẫn khắc sâu trong tâm trí cán bộ, đồng bào Thừa Thiên Huế về một sự kiện lịch sử đặc sắc, một dấu ấn đượm tình người. Đó là sinh mạng hàng ngàn chiến sĩ cách mạng được bảo toàn trong thời khắc hiểm nguy, hàng ngàn trái tim yêu nước được tiếp thêm nhiệt huyết, rồi hàng ngàn con người đó tiếp tục xông pha, chiến đấu, hy sinh và cống hiến cho quê hương và đất nước.
                                                                                                            P.V.L

(nguồn: TCSH số 228 - 02 - 2008)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNAnh em Nguyễn Sinh Khiêm - Nguyễn Sinh Cung sống với gia đình trong ngôi nhà nhỏ trên đường Đông Ba. Ngôi nhà giản dị khiêm tốn nằm lui sau cái ngõ thông với vườn nhà Thượng thư bộ Lễ Lê Trinh. Nhưng chỉ cần đi một đoạn ngang qua nhà ông Tiền Bá là đến ngã tư Anh Danh, người ta có thể gặp được các vị quan to của Triều đình.

  • BẮC ĐẢOBắc Đảo sinh 1949, nhà văn Mỹ gốc Trung Quốc. Ông đã đi du lịch và giảng dạy khắp thế giới. Ông đã được nhận nhiều giải thưởng văn học và là Viện sĩ danh dự của Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Văn chương Mỹ. Đoản văn “Những biến tấu New York” của nhà văn dưới đây được viết một cách dí dỏm, với những nhận xét thú vị, giọng điệu thì hài hước châm biếm và những hình ảnh được sáng tạo một cách độc đáo. Nhưng trên hết là một cái nhìn lạ hoá với nhiều phát hiện của tác giả khi viết về một đô thị và tính cách con người ở đó. Nó có thể là một gợi ý về một lối viết đoản văn kiểu tuỳ bút, bút ký làm tăng thêm hương vị lạ, mới, cho chúng ta.

  • PHONG LÊTrong dằng dặc của giòng đời, có những thời điểm (hoặc thời đoạn) thật ấn tượng. Với tôi, cuộc chuyển giao từ 2006 (năm có rất nhiều sự kiện lớn của đất nước) sang 2007, và rộng ra, cuộc chuyển giao thế kỷ XX sang thế kỷ XXI là một trong những thời điểm như thế. Thời điểm gợi nghĩ rất nhiều về sự tiếp nối, sự xen cài, và cả sự dồn tụ của hiện tại với quá khứ, và với tương lai.

  • XUÂN TUYNHĐầu thập niên chín mươi của thế kỷ trước, tên tuổi của Lê Thị K. xuất hiện trên báo chí được nhiều người biết tới. K. nhanh chóng trở thành một nhà thơ nổi tiếng. Với các bài thơ: “Cỏ”, “Gần lắm Trường Sa” v.v... Nhiều nhà phê bình, nhà thơ không tiếc lời ngợi khen K.

  • NGUYỄN QUANG HÀTrần Văn Thà cùng các bạn chiến binh thân thiết tìm được địa chỉ 160 chiến sĩ năm xưa của đảo Cồn Cỏ, các anh mừng lắm, ríu rít bàn cách gọi nhau ra thăm đảo Tiền Tiêu, nơi các anh đã chiến đấu ngoan cường, in lại dấu son đậm trong đời mình, các anh liền làm đơn gởi ra Tỉnh đội Quảng Trị giúp đỡ, tạo điều kiện cho cuộc gặp gỡ này.

  • TRẦN KIÊM ĐOÀN- Đừng ra xa nữa, coi chừng... hỏng cẳng chết trôi con ơi!Nhớ ngày xưa, mẹ tôi vẫn thường nhắc tôi như thế mỗi buổi chiều ra tắm sông Bồ. Hai phần đời người đi qua. Mẹ tôi không còn nữa. Bến Dấu Hàn trên khúc sông Bồ viền quanh phía Đông làng Liễu Hạ năm xưa nay đã “cũ”.

  • NGUYỄN NGUYÊN ANChúng tôi đến Đông trong những ngày cuối hạ. Thị trấn Khe Tre rực rỡ cờ hoa long trọng kỷ niệm 60 năm Ngày thương binh liệt sĩ. Sau bão số 6 năm 2006, tôi lên Nam Đông, rừng cây hai bên đường xơ xác lá, hơn 700 ha cao su gãy đổ tơi bời và hơn 3.000 ngôi nhà bị sập hoặc tốc mái, đường vào huyện cơ man cây đổ rạp, lá rụng dày mấy lớp bốc thum thủm, sức tàn phá của bão Xangsane quả ghê gớm!

  • Trang Web văn học cá nhân là một nhu cầu tương thuộc giữa tác giả và độc giả của thời đại thông tin điện tử trên Internet. Hoặc nói cách khác, nó là nhu cầu kết nối của một thế giới ảo đang được chiếu tri qua sự trình hiện của thế giới đồ vật.So với đội ngũ cầm bút thì số lượng các nhà văn có trang Web riêng, nhất là các nhà văn nữ còn khá khiêm tốn nhưng dù sao, nó cũng đã mở thêm được một “không gian mạng” để viết và đọc cho mỗi người và cho mọi người.

  • NGUYỄN NGỌC TƯSinh năm 1976. Quê quán: huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau.Hiện là biên tập viên Tạp chí Bán đảo Cà MauNguyễn Ngọc Tư từng đạt nhiều giải thưởng trung ương và địa phương. Trong đó, truyện vừa Cánh đồng bất tận (giải thưởng Hội Nhà văn Việt ) đã được chuyển ngữ qua tiếng Hàn Quốc. http://ngngtu.blogspot.com

  • VÕ NGỌC LANThuở nhỏ, tôi sống ở Huế. Mỗi lần nhớ về nơi chôn nhau cắt rốn của mình, tôi vẫn gọi đó là ký ức xanh.

  • TÔN NỮ NGỌC HOATôi còn nhớ như in cảnh cả nhà ngồi há miệng nghe chính cậu em tôi là thanh niên xung phong trở về từ Đắc Lắc sau đợt đi khai hoang chuẩn bị đưa dân lập vùng kinh tế mới kể chuyện.

  • TRẦN HẠ THÁPThời gian tuôn chảy vô tình. Con người mê mải cuốn theo dòng cho đến khi nhìn lại thì tuổi đời chồng chất… Ngày thơ dại đã mịt mờ trong kỷ niệm. Mặt trăng rằm tỏa rạng còn đó nhưng dường như không còn là màu trăng xưa cũ. Thứ ánh sáng hồn nhiên một thuở mang sắc màu kỳ diệu không thể nào vẽ được. Dường như chưa trẻ thơ nào ngước nhìn trăng mà sợ hãi.

  • TRẦN HOÀNGCũng như nhiều bạn bè cùng thế hệ, vào những năm cuối thập niên năm mươi của thế kỷ trước, chúng tôi đã được tiếp xúc với Văn học Nga - Xô Viết thông qua nhiều tác phẩm được dịch từ tiếng Nga ra tiếng Việt. Lứa tuổi mười bốn, mười lăm học ở trường làng, chúng tôi luôn được các thầy, cô giáo dạy cấp I, cấp II động viên, chỉ bảo cho cách chọn sách, đọc sách…

  • MAI TRÍHễ có dịp lên A Lưới là tôi lại đến thăm gia đình mẹ Kăn Gương. Song, lần này tôi không còn được gặp mẹ nữa, mẹ đã đi xa về cõi vĩnh hằng với 6 người con liệt sỹ của mẹ vào ngày 08/01/2006.

  • HỒ ĐĂNG THANH NGỌCNếu cắt một lát cắt tương đối như cơ học trong hành trình trùng tu di tích, cắt thời gian dương lịch của năm 2007, sẽ thấy đây là năm mà người ta nhận ra di sản Huế đang mỉm cười từ trong rêu cỏ dẫu đây đó vẫn còn có nhiều công trình đang thét gào, kêu cứu vì đang xuống cấp theo thời gian tính tuổi đã hàng thế kỷ.

  • NGUYỄN QUANG HÀBấy giờ là năm 1976, đất nước vừa thống nhất. Bắc trở về một mối. Người miền Bắc, miền xôn xao chạy thăm nhau, nhận anh em, nhận họ hàng. Không khí một nhà, vui không kể xiết.

  • HÀ VĂN THỊNH Trong cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quãng thời gian ở Huế không phải là ngắn. Lần thứ nhất, từ mùa hè 1895 đến tháng 5 - 1901 và lần thứ hai, từ tháng 5 - 1906 đến tháng 5 - 1909. Tổng cộng, Nguyễn Sinh Cung - Nguyễn Tất Thành (NTT - tên được đặt vào năm 1901) đã sống ở Huế 9 năm, tức là hơn 1/9 thời gian sống ở trên đời. Điều đặc biệt là, bước ngoặt quyết định của NTT đã diễn ra ở Huế; trong đó, việc tham gia vào phong trào chống thuế có ý nghĩa quan trọng nhất.

  • NGÔ ĐỨC TIẾNVào những năm 1950 đến năm 1954, tại khu rừng Khuổi Nậm, Tân Trào. Ở chiến khu Việt Bắc, người ta thấy một cán bộ khoảng trên dưới 40 tuổi, người tầm thước, nói giọng Nghệ trọ trẹ, thường có mặt ở các cuộc họp quan trọng của Chính phủ kháng chiến để làm thư ký tốc ký cho Trung ương và Hồ Chủ tịch.

  • LÊ HUỲNH LÂMNhững ngày mưa gió lê thê của mùa đông ngút ngàn vừa đi qua, những trận lụt bất thường gây nên bao tan tác, để lại những vệt màu buồn thảm trên gương mặt người dân nghèo xứ Huế, các con đường đầy bùn non và mịt mùng từng đám bụi phù sa, những vết thương còn âm ỉ trong hồn người…

  • HỒ ĐĂNG THANH NGỌCCâu chuyện tôi sắp kể với các bạn dưới đây không phải là một câu chuyện thuộc huyền sử về lửa cỡ như ngọn lửa Prométe hay biểu tượng lửa trong đạo Hinđu, hay lửa trong Kinh Dịch tương ứng với phương nam, màu đỏ, mùa hè...