Cứ lặng lẽ thế mới làm nên chuyện

11:13 13/05/2008
đầu tháng 4 năm ngoái, sau khi tuần báo “Văn nghệ” của Hội Nhà văn Việt Nam đăng truyện ngắn dự thi “Quả đồng chùy tóc bện” của Trần Hạ Tháp - một bút danh “mới toanh” trên văn đàn, tôi ghé tòa soạn “Sông Hương” hỏi nhà văn Hà Khánh Linh:- Chị biết Trần Hạ Tháp là ai không? Tác giả chắc là người Huế...

Hà Khánh Linh mỉm cười và đưa tay chỉ một “gã” đàn ông dáng cục mịch đang cắm cúi đọc cái gì đó bên chiếc bàn ở góc phòng, giọng thú vị:
- Tác giả đang ngồi trước mặt anh đó!
Thì ra Trần Hạ Tháp là bút danh mới của Nguyễn Văn Thêm. (Anh đã có bút danh là Liễu Thượng Văn.) Lúc đó, anh đang làm “hợp đồng” cho Tạp chí “Sông Hương” với lương tháng 200.000 đồng. Tôi đã đọc một số bài nghiên cứu của Liễu Thượng Văn, không ngờ anh còn là một cây bút truyện ngắn có tài. “Quả đồng chùy tóc bện” là câu chuyện bi tráng về một nghĩa sĩ bị chém đầu trong cuộc khởi nghĩa Thái Phiên-Trần Cao Vân. Chỉ riêng việc tác giả “sáng tạo” ra cái vũ khí độc đáo “quả đồng chùy tóc bện” đã khiến bạn đọc chú ý. “...Binh khí này gồm hai phần dính vào nhau tương phản lạ lùng. Phần trên tròn cứng, phần dưới mềm dài, phối hợp một cách kỳ diệu tính “cương nhu” trong vận hành sâu xa của “lý âm dương” không thể tách rời...” Đáp lại lời chúc mừng của tôi chỉ là một nụ cười thoáng chút ngượng nghịu. Hầu như anh không nói một lời nào; cũng không ai nói gì thêm.
Chỉ ba tháng sau, truyện ngắn “Cuộc cờ lều Ngộ Vân” của Trần Hạ Tháp lại được báo “Văn nghệ” trân trọng giới thiệu trên trang nhất. Sáng thứ 6, mở trang báo tại Hội Văn nghệ, tưởng mình là người đọc báo trước nhất, tôi vội sang “Sông Hương” báo tin mừng cho Liễu Thượng Văn, nhưng nhà văn Hồng Nhu đã vui vẻ nói:
- Hôm qua, Dạ Ngân đã gọi điện vào cho biết tòa soạn rất chú ý truyện của Trần Hạ Tháp. Cậu ta sướng rơn, đang chạy ra bưu điện tìm mua báo.
Một lúc sau, gặp Liễu Thượng Văn; anh lặng lẽ chào tôi với nụ cười có chút ngượng nghịu như trước, chỉ khác là đôi má cao trên bộ mặt thô cứng của anh ửng hồng như má con gái. Tôi hỏi:
- Sao cậu lại lấy bút danh là Trần Hạ Tháp?
- Cả hai bút danh đều gắn với quê hương của em. Nhưng có thằng bạn bảo “thượng văn” không được khiêm tốn. Đã vậy thì lấy “hạ tháp”!
Định hỏi thêm anh đôi điều, nhưng anh đã lại ngồi bên chiếc bàn ở góc phòng cắm cúi đọc bản thảo như một viên chức mẫn cán và thủ phận. Cũng không ai bàn luận gì thêm về truyện “Cuộc cờ ...” Đối với văn nghệ, hình như lâu nay dư luận chỉ quen chú ý những tác phẩm có “vấn đề” - hiểu theo nghĩa là tác phẩm bị phê phán “mất lập trường” hay khêu gợi thị hiếu thấp kém... Truyện ngắn “Cuộc cờ...” - dù chỉ viết về một khoảnh khắc của Nguyễn Trãi bên bàn cờ với nhà sư Ngộ Vân, là tác phẩm ở một tầm khác, nên không gây nên “dư luận” cũng là lẽ thường! Các  bạn văn ở Huế - những ai đã đọc “Cuộc cờ...”, đều mừng cho Trần Hạ Tháp và thầm đoán là anh có thể “dính giải” - nghĩa là đạt một giải thấp của cuộc thi. Chỉ vậy thôi! Một cuộc thi kéo dài hơn 2 năm của tờ báo văn nghệ lớn nhất nước có cả ngàn người dự - trong đó có nhiều nhà văn từng giật giải ở nhiều cuộc thi khác trước đây, thì một cây bút mới toanh như Trần Hạ Tháp nếu “dính giải” là vinh dự lắm rồi!
Vậy mà thật bất ngờ, người vừa “hạ” bút danh xuống tầm thấp lại được đứng ở đỉnh cao nhất: Trần Hạ Tháp đã đoạt giải A (cùng với Nguyễn Đức Thiện). Nhà văn Nguyễn Kiên, Chủ tịch Hội đồng văn xuôi Hội Nhà văn Việt Nam đã viết lời bình như sau: “Cuộc cờ trong gian lều cỏ, quân cờ ngà, còn bàn cờ trên tấm ván cửa, giữa Nguyễn Trãi đã lui về ở ẩn và nhà sư chùa Ngộ Vân. Chỉ vì Nguyễn Trãi nhất định không thí tốt đành chịu ván cờ hòa. Quân tốt đen trong bộ quân cờ ấy phải chung cảnh mất còn chìm nổi cùng với nỗi họa tru di cuối đời Nguyễn Trãi. Rồi người con trai duy nhất còn sống sót sau thảm họa lại giữ bộ quân cờ, lẫn ở giữa chúng sinh... Quân tốt đen làm nên nhịp truyện tạo ra sắc thái riêng cho ý truyện. Thực chăng? Tượng trưng chăng? Truyện tuy bảng lảng khói sương, phảng phất hơi hướng Phật Lão nhưng vẫn ở giữa đời, có tình đời, tình người, nỗi đau và niềm hy vọng”.
Nói thêm lời khen nào nữa, có lẽ là thừa. Có điều đáng nói thêm là tác giả đạt giải thưởng văn chương một cuộc thi vào loại lớn và sang trọng nhất nước lên tàu ra Hà Nội lĩnh giải và trở về Huế lặng lẽ hầu như không mấy ai biết. Có lẽ một phần do cuộc thi kết thúc vào dịp các Hội văn học nghệ thuật ở Trung ương liên tiếp công bố giải thưởng hàng năm và thiên hạ thì bận sắm Tết đón thiên niên kỷ mới. Phần nữa, có thể vì tác giả là một “phó thường dân” (hiện nay, anh không làm “hợp đồng” với “Sông Hương” nữa) lại là người ít nói; tác phẩm văn học thì vốn hình thành trong lặng lẽ và cô đơn. Và cũng đã từ lâu, “thiên hạ” như chỉ còn biết hoan hô những “ngôi sao” trên sân cỏ và sân khấu. Chả thế mà có chuyện khi nhà văn-đại tá Xuân Thiều được đề nghị tặng thưởng về cả ngàn trang tiểu thuyết (“Thôn ven đường”, “Huế mùa mai đỏ”, “Tư Thiên”) ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng trên vùng đất Trị-Thiên-Huế, có người đã tỏ ra băn khoăn vì “nghe nói ông Thiều làm những bài thơ khó hiểu bị báo chí phê phán”! Một người rất “quan tâm” đến văn hóa-văn nghệ mà còn lầm lẫn nhà thơ nổi tiếng Nguyễn Quang Thiều với nhà văn Xuân Thiều cũng rất nổi tiếng thì Trần Hạ Tháp không được mấy người để mắt đến cũng là chuyện không nên buồn trong thời buổi sách văn học chỉ in được 500-1000 bản cung cấp cho đất nước có đến 70 triệu dân!
Dù sao thì ít ra người trong nghề cũng phải biết quý trọng những thành công của đồng nghiệp. Chính vì thế mà trong buổi gặp mặt cuối năm của Hội Nhà văn Thừa Thiên-Huế, dù biết không ít các bạn văn chỉ muốn “nâng cốc vui vẻ”, tôi đã phải “cao giọng” nêu lên sự kiện Trần Hạ Tháp và đề nghị một cách đối đãi đặc biệt với những tài năng. Rất mừng là Chủ tịch Hội Võ Quê đã hưởng ứng bằng lời đánh giá “giải thưởng của Trần Hạ Tháp gần như là Trạng Nguyên ngày xưa...”; và sau Tết, anh đã dành một buổi trò chuyện kỹ lưỡng với “Ông Trạng” ít lời, trong đó việc trước mắt là tìm cách giúp tác giả công bố được tác phẩm...
Tôi đã có dịp đến thăm nhà “Ông Trạng” ở Tây Linh. Căn nhà nhỏ, hai vợ chồng, một đứa con; bên thềm, cô vợ trẻ đang hoàn thiện bức tranh thêu con chim hạc... Một khung cảnh kể cũng nên thơ! Nhưng “cơm áo không đùa với khách thơ”! Cả gia đình nay hầu như chỉ sống dựa vào tiền bán những bức tranh thêu, trung bình mỗi ngày được mươi lăm ngàn đồng. Có lẽ cũng vì vậy mà gia đình anh thành một địa chỉ gương mẫu thực hiện “kế hoạch hóa gia đình”; cậu con trai nay đã học lên lớp 10 mà chưa dám sinh đứa thứ hai!
Khi chưa thành “Ông Trạng”, Nguyễn Văn Thêm từng nhiều phen “quyết chí làm ăn”, nhưng vận may không đến với anh. Học Luật chưa xong thì Huế giải phóng; ngành Luật không được mở tiếp, chuyển qua học sử, rồi thành “anh giáo vùng cao”. Những cơn sốt rét liên miên đã khiến anh rời bục giảng. Anh cũng đã từng theo chân nhiều toán đi tìm trầm rồi tình nguyện làm nhà báo “nghiệp dư”. Cây rừng nhiều nhưng trầm thì hiếm; nhà báo nay cũng đông đúc như...rừng mà chỗ đăng thì có hạn; lối viết nhẩn nha của anh lại không hợp yêu cầu “tốc độ, vắn tắt” của nhiều toà soạn... Mãi đến nay, 48 tuổi đầu, vận may mới mỉm cười với anh! Không! Đâu phải xổ số mà may rủi. Một cuộc thi tài thực sự, công khai, “cuộc thi văn học có quy mô lớn nhất của báo Văn nghệ từ hơn nửa thế kỷ qua” như nhà thơ Hữu Thỉnh, Tổng Thư ký Hội Nhà văn Việt Nam đã nói; phải, chính là nhờ trải cuộc sống thăng trầm trong gần nửa thế kỷ qua mà Trần Hạ Tháp đã có “vốn”, có bản lĩnh để viết nên “Cuộc cờ...”. Và không chỉ có “Quả đồng chùy...” và “Cuộc cờ...”. Anh đã đưa tôi xem ba truyện chưa in: “Ngọn Hồng Lĩnh một trăm”, “Thế trận Linh Xà”, “Miếu chim đồng Ông Vọng”. Cả ba đều là truyện mượn đề tài lịch sử và chưa hẳn đã thành công, nhưng bản lĩnh tác giả một lần nữa được khẳng định, khi anh lại “dám” đề cập đến những nhân vật lịch sử nổi tiếng như Nguyễn Du, Nguyễn Huệ.
- ...Năm ngoái, em viết truyện “Cuộc cờ...” vào những đêm túc trực bên giường mẹ trong suốt hai tháng trời... Trước đó, ông anh ruột của em mất. Một năm, hai cái tang, gia đình em “độc đinh”, mọi việc em phải lo...May có giải thưởng, Tết này em mới có mâm cúng đàng hoàng thắp hương cho mẹ... Việc xuất bản sách, anh Võ Quê cũng vừa nói với em. Em còn một tập thơ, một tập nghiên cứu về Huế. Nhưng lấy tiền đâu? Tiền giải thưởng được 7 triệu, chi phi đi ra đi vào, chút quà cáp cho bà con, qua cái Tết nữa, vừa hết!...
- Thế báo “Văn nghệ” không chi tiền vé ra-vào cho cậu à?
- Làm gì có, anh! May chị Dạ Ngân ứng thêm cho một trăm ngàn nhuận bút truyện “Cuộc cờ...” đăng lại trong phụ san số Tết...
Việc này chắc ông Hữu Thỉnh không biết. Để tôi viết thư hỏi xem...
Nghe tôi nói lại, Chủ tịch Hội Võ Quê cũng có phần ngạc nhiên và anh nói, giọng thoáng vẻ băn khoăn:
- Cậu ta đi lặng lẽ, có ai biết đâu. Nếu biết, Hội có thể chi tiền tàu xe...
Phải! Nghe nói có tỉnh cho hẳn cả xe con đưa tác giả đi lĩnh thưởng, chứ dăm trăm ngàn tiền vé thì “ăn nhằm” gì!
Vậy là tôi đã hơi “ồn ào”. Mà Trần Hạ Tháp, ngay cả lúc tâm sự với tôi cũng rất kiệm lời và nhỏ giọng. (Cũng có thể là anh chàng ngại cô vợ đang ngồi thêu bên thềm nghe “lóm” thêm tủi chăng?) Hình như trong văn nghệ - nhất là nghề văn - những người thích “ồn ào” không mấy ai làm nên tác phẩm có giá trị và ngược lại... Thì cứ xem như Nguyễn Xuân Khánh, suốt 10 năm sống lặng lẽ “lặn mất tăm” để bất ngờ tung ra tiểu thuyết “Hồ Quý Ly” 835 trang nặng chịch khiến cả làng văn kính nể. Và nay là Trần Hạ Tháp... Vậy nên tôi cầu mong là sau sự nổi tiếng này, “Ông Trạng” hãy cứ sống lặng lẽ để tĩnh tâm mà chiêm nghiệm cuộc đời, để có thêm những áng văn hay như “Cuộc cờ...”, tác phẩm đã đem lại vinh dự không chỉ cho mình tác giả.
                                                                    10/2/2001


NGUYỄN KHẮC PHÊ
(nguồn: TCSH số 145 - 03 - 2001)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TÔN PHƯƠNG LANCũng như những nhà văn mặc áo lính thuộc thế hệ đầu và tờ tạp chí Văn nghệ quân đội của họ, Trần Dần là một tên tuổi quen thuộc mà gắn với tên tuổi ông là cuốn tiểu thuyết Người người lớp lớp. Là một học sinh thành phố, khi Cách mạng tháng Tám thành công, 19 tuổi, ông bắt đầu hoạt động cách mạng rồi đầu quân tham gia kháng chiến chống Pháp và hoạt động văn nghệ.

  • Hồ Thế Hà sinh năm 1955, quê ở thị trấn Ngô Mây, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Anh tham gia quân đội từ 1978 đến 1982, chiến đấu tại Campuchia. Hồ Thế Hà tốt nghiệp khoa Ngữ văn, Đại học Tổng hợp Huế năm 1985 và được giữ lại trường. Hiện anh là Phó Giáo sư, Tiến sĩ đang giảng dạy tại khoa Ngữ văn, trường Đại học Khoa học - Đại học Huế. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Hội viên Hội Nhà báo Việt Nam. Anh đồng thời là Ủy viên Ban chấp hành Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Huế nhiệm kì: 2000 - 2005; 2005 - 2010. Chủ tịch Hội đồng Nghệ thuật Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, nhiệm kì 2000 - 2005; 2005 - 2010.

  • PHẠM PHÚ PHONGĐúng vào dịp Huế chuẩn bị cho Festival lần thứ III năm 2004, Vĩnh Quyền cho tái bản tập ký và truyện Huế mình, tập sách mới in trước đó chưa tròn một năm, năm 2003. Trước khi có Huế mình, Vĩnh Quyền đã có nhiều tác phẩm được bạn đọc chú ý như các tiểu thuyết lịch sử Vầng trăng ban ngày, Mạch nước trong, Trước rạng động, các tập truyện Người tử tù không chết, Người vẽ chân dung thế gian, Màu da thượng đế, tập bút ký Ngày và đêm Panduranga và tập tạp văn Vàng mai.

  • ...Không có sự lựa chọn nào cả, tôi đến với thơ như một nghiệp dĩ. Tôi nghĩ thơ là một thứ tôn giáo không có giáo chủ. Ở đây, các tín đồ của nó đều được mặc khải về sự bi hoan trần thế và năng lực sẻ chia những nỗi niềm thân phận. Cuộc đời vốn có cái cười và cái khóc. Người ta, ai cũng có thể cười theo kiểu cười của kẻ khác, còn khóc thì phải khóc bằng nước mắt của chính mình. Với tôi, thơ là âm bản của nước mắt...

  • …Có thể thấy gần đây có những xu hướng văn học gây “hot” trong độc giả, ví như xu hướng khai thác truyện đồng tính. Truyện của tôi xin khước từ những “cơn nóng lạnh” có tính nhất thời ấy của thị trường. Tôi bắt đầu bằng chính những câu chuyện giản đơn của cuộc sống hàng ngày, những điều giản đơn mà có thể vô tình bạn bước qua…

  • NGÔ KHAKỷ niệm 40 năm ngày Bác Hồ ra đi, chúng ta đều nhớ lại di chúc thiêng liêng của Bác để lại cho nhân dân ta. Đó là tình cảm và niềm tin của Bác đối với chúng ta ngày nay và các thế hệ mai sau.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 245 tháng 7-2009 và hết)

  • Nguyễn Khắc Phê quê ở Hương Sơn, Hà Tĩnh. Anh xuất thân trong một gia đình trí thức. Bố anh từng đậu Hoàng Giáp năm 19 tuổi. Các anh trai đều là bác sĩ, giáo sư, tiến sĩ nổi tiếng như Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Khắc Dương, Nguyễn Khắc Phi... Có người nói vui “Nguyễn Khắc Phê con nhà quan tính nhà lính”.

  • VĂN CẦM HẢI(Đọc “Ngôi nhà vắng giữa bến sông”, Tập truyện ngắn của Nguyễn Kiên - Nxb Hội Nhà văn, 2004)

  • NGUYỄN QUANG SÁNGMấy năm gần đây, dân ta đi nước ngoài càng ngày càng nhiều, đi hội nghị quốc tế, đi học, đi làm ăn, đi chơi, việc xuất ngoại đã trở nên bình thường. Đi đâu? Đi Mỹ, đi Pháp, đi Trung Quốc, Đài Loan, Singapore, Hàn Quốc... Nhà văn Văn Cầm Hải cũng đi, chuyến đi này của anh, anh không đi những nơi tôi kể trên, anh đi Tây Tạng, rất lạ đối với tôi.

  • HÀ KHÁNH LINHDân tộc ta có hơn bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước, đã xảy ra nhiều cuộc nội loạn ngoại xâm, nhiều thế hệ người Việt Nam đã cầm vũ khí ra trận giết giặc cứu nước, nhưng mãi đến cuối thế kỷ 20 những chàng trai nước Việt mới phải đi giữ nước từ xa, mới đi giữ nước mà mang trong lòng nỗi nhớ nước như tứ thơ của Phạm Sĩ Sáu.

  • LÊ VĂN THÊSau sáu năm (kể từ 2002) nhà văn Cao Hạnh được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam, (cuối năm 2008); Hội Văn học nghệ thuật Quảng Trị mới có thêm một nhà văn được kết nạp. Đó là Văn Xương.

  • NGÔ MINHTrong đợt đi Trại viết ở Khu du lịch nước nóng Thanh Tân, anh em văn nghệ chúng tôi được huyện Phong Điền cho đi dạo phá Tam Giang một ngày. Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Thế là người dẫn đường. Anh dân sở tại, thuộc lòng từng tấc đất cổ xưa của huyện.

  • PHẠM PHÚ PHONG…Làng em đây, núi rừng Trung Việt cũng là đây/Xưa kia đã hùng dũng đánh Tây/Giờ lại hiên ngang xây thành chống Mỹ/Đường Trường Sơn là đường chân lý/Đã cùng quê em kết nghĩa hẹn hò… (Quê em, 1971)

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGKể từ tập thơ đầu tay (Phía nắng lên in năm 1985), Huyền thoại Cửa Tùng (*) là tập thơ thứ mười (và là tập sách thứ 17) của Ngô Minh đã ra mắt công chúng. Dù nghề làm báo có chi phối đôi chút thì giờ của anh, có thể nói chắc rằng Ngô Minh đã đi với thơ gần chẵn hai mươi năm, và thực sự đã trở thành người bạn cố tri của thơ, giữa lúc mà những đồng nghiệp khác của anh hoặc do quá nghèo đói, hoặc do đã giàu có lên, đều đã từ giã “nghề” làm thơ.

  • Võ Quê được nhiều người biết đến khi anh 19 tuổi với phong trào xuống đường của học sinh, sinh viên các đô thị miền Nam (1966). Lúc đó, anh ở trong Ban cán sự Sinh viên, học sinh Huế. Võ Quê hoạt động hết sức nhiệt tình, năng nổ bất chấp nguy hiểm với lòng yêu nước nồng nàn và niềm tin sắt đá vào chính nghĩa.

  • PHẠM PHÚ PHONGThỉnh thoảng có thấy thơ Đinh Lăng xuất hiện trên các báo và tạp chí. Một chút Hoang tưởng mùa đông, một Chút tình với Huế, một chuyến Về lại miền quê, một lần Đối diện với nỗi buồn, hoặc cảm xúc trước một Chiếc lá rụng về đêm hay một Sớm mai thức dậy... Với một giọng điệu chân thành, giản đơn đôi khi đến mức thật thà, nhưng dễ ghi lại ấn tượng trong lòng người đọc.

  • ĐẶNG TIẾNNhà xuất bản Trẻ, phối hợp với Công ty Văn hoá Phương Nam trong 2002 đã nhẩn nha ấn hành Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường, trọn bộ bốn cuốn. Sách in đẹp, trên giấy láng, trình bày trang nhã, bìa cứng, đựng trong hộp giấy cứng.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 244 tháng 6-2009)Mến tặng các nhà văn Tô Nhuận Vỹ, Khánh Phương, Trần Thị Trường, cháuDiệu Linh, và những người bạn khác,lớn lên trong những hoàn cảnh khác.

  • NGUYỄN THỤY KHANhà thơ Quang Dũng đã tạ thế tròn 15 năm. Người lính Tây Tiến tài hoa xưa ấy chẳng những để lại cho cuộc đời bao bài thơ hay với nhịp thơ, thi ảnh rất lạ như "Tây Tiến", "Mắt người Sơn Tây"... và bao nhiêu áng văn xuôi ấn tượng, mà còn là một họa sĩ nghiệp dư với màu xanh biểu hiện trong từng khung vải. Nhưng có lẽ ngoài những đồng đội Tây Tiến của ông, ít ai ở đời lại có thể biết Quang Dũng từng viết bài hát khi cảm xúc trên đỉnh Ba Vì - quả núi như chính tầm vóc của ông trong thi ca Việt Nam hiện đại. Bài hát duy nhất này của Quang Dũng được đặt tên là "Ba Vì mờ cao".