Nhân vật, chủ đề, bối cảnh và đối thoại sẽ tuôn trào ra từ trong đầu nhà văn một cách nhẹ nhàng. Nhưng cốt truyện là nơi có thể khiến dòng chữ nghĩa của họ bị tắc nghẽn. Không thể đưa ra một giải pháp đơn giản cho vấn đề này. Phóng bút viết phần mở đầu tuyệt vời cho cuốn sách chỉ là một chuyện, nhưng để tiếp tục dẫn dắt nó đi đến kết thúc vừa ý, bạn sẽ cần phải dựng cốt truyện. Tác phẩm cần cốt truyện như là cơ thể cần một bộ xương vậy. Nhiều người thường cho rằng, chỉ có một nhúm ít ỏi cốt truyện trong văn học xưa nay, chẳng hạn: đàn bà gặp đàn ông, họ cấu véo rồi lại làm lành với nhau. Nhưng đó chỉ là một thứ công thức, ứng dụng cho Jane Eyre và hàng nghìn tác phẩm khác. E. M. Forster từng viết: “Truyện là sự trần thuật về một chuỗi sự kiện được sắp xếp theo một trình tự thời gian nào đó. Một cốt truyện cũng là sự trần thuật về chuỗi sự kiện, nhưng điểm nhấn rơi vào quan hệ nhân quả”. Thực ra, vấn đề phức tạp hơn thế, nhưng định nghĩa của Forster đã đưa ra một gợi ý bổ ích về sự khác biệt giữa trần thuật - cách chuyển tải, sắp xếp sự kiện đến người đọc và bản thân truyện. Phần lớn các nhà văn cho rằng, cốt truyện là sự kết hợp giữa hai yếu tố: chuỗi sự kiện và cách thức tác giả chuyển tải chúng đến người đọc. Một số tác giả thường vạch ra cốt truyện chi tiết trước khi bắt tay vào viết. Nhưng sự chuẩn bị quá kỹ càng có thể sản sinh ra một câu chuyện nhạt nhẽo, vô vị và khô cứng. Rất nhiều nhà văn viết khi trong đầu mới chỉ có phác thảo một vài chương và định hình lờ mờ về hướng triển khai của câu chuyện. E. L. Doctorow đã hình dung về phương pháp này như sau: “Viết tiểu thuyết cũng như là lái xe đêm. Bạn chỉ nhìn thấy đường trong vòng ánh sáng đèn pha, nhưng bằng cách đó, bạn vẫn đi hết cuộc hành trình”. Ngay cả các nhà văn trinh thám cũng thường áp dụng cách này, dù người ta thường cho rằng thể loại văn học này đòi hỏi tác giả phải biết trước mọi thứ. Reginald Hill, tác giả của rất nhiều cốt truyện phức tạp từng phát biểu, cốt truyện là thứ ông định hình về sau. Nhiều nhà văn trinh thám còn khẳng định, họ thay đổi cả kẻ giết người khi đã viết gần hết tác phẩm. Rất nhiều cuốn tiểu thuyết đầu tay có cốt truyện vô cùng phức tạp, bởi các tác giả chưa có kinh nghiệm tưởng có thể thu hút độc giả bằng cách đó. Nhưng một cốt truyện hay không nhất thiết phải phức tạp, nó thậm chí không cần phải được giải quyết một cách đầy đủ. Có lẽ, một cốt truyện thành công là cốt truyện mang đến cho độc giả cảm giác rằng khi gấp sách lại, câu chuyện vẫn tiếp diễn. Anton Chekhov từng nói, khi viết, bạn cần phải tìm cách vượt qua đoạn mở đầu và kết thúc, vì đó là những nơi “nhà văn mất nhiều thời gian chần chừ nhất”. Truyện cười hay truyện trinh thám đòi hỏi sự tổ chức cốt truyện rất cẩn thận và chặt chẽ. Cốt truyện không nhất thiết phải đáng tin nhưng nó phải có sự nhất quán bên trong, đặc biệt khi bạn viết để in ấn. Những cốt truyện thành công thường hàm chứa những yếu tố bất ngờ và độc đáo. Một khi đã đọc tiểu thuyết The Third Policeman bạn sẽ không thể quên con đường đi đến kết thúc của nó. Độc giả thích những cuốn sách mang đến cho họ những chi tiết không đoán trước được. John le Carré từng nói: “Con mèo ngồi trên tấm thảm không phải là câu chuyện. Nhưng con mèo ngồi trên tấm thảm của một con mèo khác thì chính là chuyện”. Không có một công thức cứng nhắc nào cho sáng tạo văn chương, chỉ có những gợi mở và chỉ dẫn. Nhiều người thường coi Đi tìm thời gian đã mất của Marcel Proust và The Waves của Virginia Woolf làm thước đo cho phẩm chất của cốt truyện. Nhưng với Raymond Chandler, chúng ta lại đọc để thưởng thức ngôn ngữ của ông chứ không phải là những cốt truyện rời rạc không đâu vào đâu. Một biên tập viên xuất sắc chắc chắn sẽ chỉ trích cách tổ chức cốt truyện trong Đồi gió hú. Nhưng các thiên tài có thể vượt qua mọi thứ, kể cả sự hạn chế về kỹ thuật tổ chức tác phẩm. Các nhà văn còn lại cần nhớ kỹ tầm quan trọng của cốt truyện trước khi viết ra câu chuyện một cách lão luyện, có nghề. H.T. dịch |
VĂN CÔNG HÙNGKính thưa quý vị, tôi phải xin phép nói ngay là những phát biểu của tôi vô cùng cảm tính và chả có một hệ thống gì hết, trong khi trước mặt tôi đây đều là những người lừng danh về cảm nhận, nhận xét, đúc kết, rất giỏi tìm ra những vấn đề, những quy luật của thơ.
TRẦN HOÀI ANH1. Có thể nói yêu cầu đổi mới của các thể loại văn học là một yêu cầu tất yếu trong đời sống văn học. Tính tất yếu nầy luôn đặt cho văn học một hành trình cách mạng. Cách mạng trong đời sống văn học và cách mạng trong bản thân từng thể loại văn học.
THÁI PHAN VÀNG ANHTừ sau 1986, sự đổi mới tư duy nghệ thuật, sự mở rộng phạm trù thẩm mĩ trong văn học khiến truyện ngắn không những đa dạng về đề tài, phong phú về nội dung mà còn có nhiều thể nghiệm, cách tân về thi pháp. Mỗi nhà văn đều lí giải cuộc sống từ một góc nhìn riêng, với những cách xử lí ngôn ngữ riêng. Hệ quả tất yếu là truyện ngắn Việt đương đại đã gặt hái được nhiều thành công trên nhiều phương diện, trong đó không thể không kể đến ngôn ngữ trần thuật.
TRẦN HOÀI ANH 1. Phân tâm học là lý thuyết có nguồn gốc từ y học, do S.Freud (1856-1939) một bác sĩ người Áo gốc Do Thái sáng lập. Đây là học thuyết không chỉ được áp dụng trong lĩnh vực y học mà còn được vận dụng trong nhiều lĩnh vực khác của đời sống xã hội trong đó có lĩnh vực nghệ thuật.
NGUYỄN DƯƠNG CÔN Từ lâu, Bản thể con người đã trở thành vấn đề cơ bản và sâu sắc nhất của mối quan hệ giữa văn học với hiện thực. Trong mối quan hệ đó, hiện thực với tư cách là đối tượng khám phá và trình diễn của văn học không còn và không phải chỉ là hiện thực cuộc sống như là dành cho các khoa học nhân văn và các nghệ thuật khác nữa.
LÝ VIỆT DŨNGThiền tông, nhờ lịch sử lâu dài, với những Thiền ngữ tinh diệu kỳ đặc cùng truyền thuyết sinh động, lại chịu ảnh hưởng sâu sắc văn hóa Á đông xưa và thấm nhuần văn hóa Tây phương ngày nay nên đã cấu thành một thế giới Thiền thâm thúy, to rộng.
TRẦN HUYỀN SÂM1. Theo tôi, cho đến nay, chúng ta chưa có những đánh giá xác đáng về hiện tượng Xuân Thu nhã tập: Cả trên phương diện lý thuyết lẫn thực tiễn sáng tác. Có phải là nguyên do, nhóm này đã bị khoanh vào hai chữ “BÍ HIỂM”?
PHI HÙNGĐỗ Lai Thuý đã từng nói ở đâu đó rằng, anh đến với phê bình (bài in đầu tiên 1986) như một con trâu chậm (hẳn sinh năm Kỷ Sửu?).Vậy mà đến nay (2002), anh đã có 4 đầu sách: Con mắt thơ (Phê bình phong cách thơ mới, 1992, 1994, 1998, 2000 - đổi tên Mắt thơ), Hồ Xuân Hương - hoài niệm phồn thực (Nghiên cứu thơ Hồ Xuân Hương từ tín ngưỡng phồn thực, 1999), Từ cái nhìn văn hoá (Tập tiểu luận, 2000), Chân trời có người bay (Chân dung các nhà nghiên cứu, 2002), ngoài ra còn một số sách biên soạn, giới thiệu, biên dịch...
PHI HÙNG(tiếp theo)
TRẦN ĐỨC ANH SƠNCuối tuần rảnh rỗi, tôi rủ mấy người bạn về nhà làm một độ nhậu cuối tuần. Rượu vào lời ra, mọi người say sưa bàn đủ mọi chuyện trên đời, đặc biệt là những vấn đề thời sự nóng bỏng như: sự sa sút của giáo dục; nạn “học giả bằng thật”; nạn tham nhũng...
HỒ VIẾT TƯSau buổi bình thơ của liên lớp cuối cấp III Trường Bổ túc công nông Bình Trị Thiên, dưới sự hướng dẫn của thầy Trần Văn Châu dạy văn, hồi đó (1980) thầy mượn được máy thu băng, có giọng ngâm của các nghệ sĩ là oai và khí thế lắm. Khi bình bài Giải đi sớm.
PHAN TRỌNG THƯỞNGLTS: Trong hai ngày 02 và 03 tháng 3 năm 2006, tại thủ đô Hà Nội đã diễn ra Hội nghị lý luận – phê bình văn học nghệ thuật toàn quốc. Trên 150 nhà nghiên cứu, lý luận, phê bình đã tham dự và trình bày các tham luận có giá trị; đề xuất nhiều vấn đề quan trọng, thiết thực của đời sống lý luận, phê bình văn học nghệ thuật hiện đại ở nước ta, trong đối sánh với những thành tựu của lý luận – phê bình văn học nghệ thuật thế giới.
NGUYỄN TRỌNG TẠO1. Con người không có thơ thì chỉ là một cái máy bằng xương thịt. Thế giới không có thơ thì chỉ là một cái nhà hoang. Octavio Paz cho rằng: “Nếu thiếu thơ thì đến cả nói năng cũng trở nên ú ớ”.
PHẠM PHÚ PHONGTri thức được coi thực sự là tri thức khi đó là kết quả của sự suy nghĩ tìm tòi, chứ không phải là trí nhớ. L.Tonstoi
TRẦN THANH HÀTrong giới học thuật, Trương Đăng Dung được biết đến như một người làm lý luận thuần tuý. Bằng lao động âm thầm, cần mẫn Trương Đăng Dung đã đóng góp cho nền lý luận văn học hiện đại Việt đổi mới và bắt kịp nền lý luận văn học trên thế giới.
PHẠM XUÂN PHỤNG Chu Dịch có 64 quẻ, mỗi quẻ có 6 hào. Riêng hai quẻ Bát Thuần Càn và Bát Thuần Khôn, mỗi quẻ có thêm một hào.
NGÔ ĐỨC TIẾNPhan Đăng Dư, thân phụ nhà cách mạng Phan Đăng Lưu là người họ Mạc, gốc Hải Dương. Đời Mạc Mậu Giang, con vua Mạc Phúc Nguyên lánh nạn vào Tràng Thành (nay là Hoa Thành, Yên Thành, Nghệ An) sinh cơ lập nghiệp ở đó, Phan Đăng Dư là hậu duệ đời thứ 14.
HỒ THẾ HÀLTS: Văn học Việt về đề tài chiến tranh là chủ đề của cuộc Toạ đàm văn học do Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế tổ chức ngày 20 tháng 12 năm 2005. Tuy tự giới hạn ở tính chất và phạm vi hẹp, nhưng Toạ đàm đã thu hút đông đảo giới văn nghệ sĩ, nhà giáo, trí thức ở Huế tham gia, đặc biệt là những nhà văn từng mặc áo lính ở chiến trường. Gần 20 tham luận gửi đến và hơn 10 ý kiến thảo luận, phát biểu trực tiếp ở Toạ đàm đã làm cho không khí học thuật và những vấn đề thực tiễn của sáng tạo văn học về đề tài chiến tranh trở nên cấp thiết và có ý nghĩa. Sông Hương trân trọng giới thiệu bài Tổng lược và 02 bài Tham luận đã trình bày ở cuộc Toạ đàm.
TRẦN HUYỀN SÂM1. Tại diễn đàn Nobel năm 2005, Harold Pinter đã dành gần trọn bài viết của mình cho vấn đề chiến tranh. Ông cho rằng, nghĩa vụ hàng đầu của một nghệ sĩ chân chính là góp phần làm rõ sự thật về chiến tranh: “Cái nghĩa vụ công dân cốt yếu nhất mà tất cả chúng ta đều phải thi hành là... quyết tâm dũng mãnh để xác định cho được sự thật thực tại...
NGUYỄN HỒNG DŨNG"HỘI CHỨNG VIỆT NAM"Trong lịch sử chiến tranh Mỹ, thì chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến tranh mà người Mỹ bị sa lầy lâu nhất (1954-1975), và đã để lại những hậu quả nặng nề cho nước Mỹ. Hậu quả đó không chỉ là sự thất bại trong cuộc chiến, mà còn ở những di chứng kéo dài làm ảnh hưởng trầm trọng đến đời sống Mỹ, mà người Mỹ gọi đó là "Hội chứng Việt Nam".