Cộng đồng lý giải - một tham số tin cậy trong tiếp nhận văn chương

09:08 25/03/2010
NGUYỄN THANH HÙNGTiếp nhận văn học thực sự diễn ra dưới ảnh hưởng của đặc điểm cuộc sống trong cộng đồng lý giải tác phẩm. Có được ý nghĩa phong phú của văn bản nghệ thuật là nhờ sự tiếp nhận của các thành viên độc giả tạo ra. Chính những ý nghĩa ấy chứ không phải bản thân văn bản, thậm chí không phải cả dụng ý của tác giả là điểm khởi đầu cho "chiều dài thương lượng" về giá trị của tác phẩm văn học trong lịch sử.

Ảnh: sggp.org.vn

Ý nghĩa của một tác phẩm văn học không phải là bộ phận quan trọng nhất của văn bản mà là sự sống trải nghiệm và năng lực hiểu biết đặc trưng nghệ thuật văn chương mà mỗi người đọc có được trong quá trình tiếp nhận. Cần phải thấy sự hạn chế của kiểu phân tích thuần túy theo đúng văn bản, một kiểu phân tích tác phẩm khép kín diễn ra thông qua sự từ bỏ mọi mô hình giải thích dựa trên kiến thức của người phân tích. Cấu trúc nội bộ văn bản chỉ mới mang tính chất tiềm tàng trong khi độc giả chưa biến chúng thành hiện thực bằng việc đọc và đánh giá chúng. Không có lý do khoa học nào chắc chắn để nói rằng một thông điệp thẩm mỹ tự khắc được giải mã theo cách nó đã được nhập mã. Sự trùng khớp giữa giải mã và nhập mã về mặt xã hội học có thể được thực hiện với các chuyên gia, song độc giả nói chung không chỉ rút ra từ tác phẩm sự thỏa mãn bất ngờ của nhà phân tích mà họ cũng có thể cưỡng lại áp lực tư tưởng mà tác phẩm muốn tác động hoặc thay đổi những ý nghĩa mà văn bản nghệ thuật gợi ý hướng dẫn sự quan tâm của người đọc.

Công chúng tiếp nhận văn học là một hiện tượng phức tạp không thể xem nhẹ. Nghiên cứu sự tiếp nhận văn chương và kết quả đáng tin cậy của tiếp nhận phải lắng nghe và tôn trọng tiếng nói của các thành viên trong công chúng độc giả đó. Hiệu quả công việc này sẽ chấm dứt lối tiếp nhận chỉ tập trung vào nhà văn. Tiếp nhận văn học không thể bằng lòng tuân theo cách khảo sát và nghiên cứu hình ảnh người tiếp nhận thông qua văn bản nghệ thuật của tác giả.

Độc giả rộng rãi của tác phẩm là phần đáng để tìm hiểu khả năng và kết quả của cách "trò chuyện hai chiều" để đi đến những nhận định đúng sai, hay dở về một tác phẩm văn học.

Theo xu hướng thuyết phục nghệ thuật tuyệt đối, người ta nghĩ rằng nhà văn khi trao cho xã hội tác phẩm của mình, họ có toàn quyền kiểm soát hiệu quả tư tưởng, tình cảm của người đọc. Không phải thế, tư tưởng bá quyền (hégémonie) của tác giả chỉ là ảo tưởng. Cá nhân người tiếp nhận văn học có thể giải mã theo những thông điệp nghệ thuật nhà văn đã nhập mã vào tác phẩm. Bên cạnh đó người vẫn có thể tạo ra một kiểu giải mã gần đúng với mã của tác phẩm hoặc có thể dùng một mã hoàn toàn trái ngược với mã hiệu của tác giả. Có thể thấy vai trò tích cực năng động của các cá nhân tiếp nhận trong cách họ tự tạo nên kiểu nhận thức riêng của mình đối với nội dung văn bản nghệ thuật và trong cách thức họ tìm thấy ý nghĩa trong các thông điệp thẩm mỹ mà họ tiếp cận. Trường phái ký hiệu học ngôn ngữ không thừa nhận tần số xuất hiện các biểu trưng văn học là chỉ số của nội dung tư tưởng được thể hiện. Trái lại nó được tập trung vào việc khảo sát mối quan hệ cấu trúc giữa các biểu trưng văn học và coi chúng là những thành phần ý nghĩa nội dung nghệ thuật của tác phẩm. Cuối cùng nhưng biểu trưng văn học này lại khôi phục nội dung tiềm tàng của thông điệp thẩm mỹ vượt qua sự tương ứng giản đơn với nội dung hiện thực được thể hiện để khảo sát những ý nghĩa tiềm ẩn trong đó.

Không thể đánh giá các "quyền" của cá nhân người tiếp nhận văn học đến mức hoàn toàn không còn nhìn thấy đúng mức tác phẩm văn học với tư cách là đối tượng thẩm mĩ đã tác động mạnh mẽ, toàn diện đến người tiếp nhận. Đó là điều cần nói để giải thuyết sự tự do vô hạn ở người đọc.

Nhiều năm nay giới nghiên cứu lý thuyết tiếp nhận quan tâm đến vấn đề người đọc sáng tạo, tham gia tích cực vào sự hiểu biết tác phẩm văn chương thông qua quá trình xây dựng biểu tượng với những ý nghĩa đặc biệt gắn liền với nội dung các thông điệp họ nhận được. Trọng tâm của vấn đề được chuyển từ "qui trình giải mã thông điệp" sang sự tập trung chú ý vào ngữ nghĩa học hay là quá trình xã hội hóa tác phẩm nhằm vào quá trình người đọc có nắm vững được ý nghĩa của các thông điệp được hình thức hóa trong tác phẩm hay không chứ không không phải chỉ là nhằm vào cảm giác thỏa mãn tâm lý của họ.

Văn bản nghệ thuật được lưu giữ nhờ chữ in đã thúc đẩy người đọc huy động năng lực thị giác hơn là thính giác và xúc giác làm cho môi trường quan hệ giữa các giác quan thay đổi cơ chế hoạt động. Thị giác tạo điều kiện nhiều hơn cho những hoạt động phân tích trí tuệ trong khi thính giác và xúc giác lại tạo điều kiện tốt hơn cho xúc cảm và trực giác.

Phải đi tiếp chặng đường nghiên cứu tiếp nhận bằng cách tìm hiểu đặc tính vật thể của văn bản nghệ thuật và các phương tiện chuyển tải thông tin thẩm mĩ trong tác phẩm cũng như ảnh hưởng của đặc tính vật thể ấy đến cuộc sống tinh thần của người tiếp nhận.

Cần nhận thức rõ ràng tiếp nhận tác phẩm văn học là tiếp nhận cái gì? Thông tin hay là sự nhập cuộc và dấn thân vào nghệ thuật. Người ta thường phân biệt "phương tiện nóng" và "phương tiện lạnh" trong ý đồ tác động của nhà văn đến người đọc. Phương tiện nóng được hiểu như là sự khêu gợi chủ quan đi kèm theo với nhiệt tình dẫn dắt đối thoại của tác giả, không đòi hỏi người tiếp nhận phải tham gia nhiều vào quá trình đồng hóa tác phẩm. Phương tiện nóng thường kéo dài đối với một giác quan nào đó và tạo ra mức độ tiếp thu thông tin cao hơn bởi tính chất động lực cuốn hút của nó. Phương tiện lạnh thì lại tác động sâu và cùng lúc đánh vào nhiều giác quan, chỉ cung cấp thông tin ở mức độ thấp nhưng lại đòi hỏi người tiếp nhận phải nhập thân và nếm trải thẩm mĩ. Điều này gợi cho chúng ta nghĩ về mục đích của tác phẩm không chỉ là thông tin mà là tạo ra môi trường văn hóa thẩm mĩ thích hợp để người đọc cùng sống trong môi trường đó. Mục đích hoạt động của cơ chế tiếp nhận văn học là chuyển hóa người tiếp thụ thông tin từ chủ thể tiếp nhận thành người tham dự vào nhưng biến cố và số phận con người trong tác phẩm. Chất lượng của thông tin lạnh này được thể hiện ở mức độ thỏa mãn và hòa nhập của người tiếp nhận vào đời sống của tác phẩm văn học.

Ít ra cũng cần phải lưu ý những nội dung sau đây trong cơ chế tiếp nhận:

            - Người tiếp nhận cần tham dự tới mức độ nào vào cuộc sống tác phẩm.

            - Khả năng đồng nhất các khoảng cách thẩm mĩ - tức là khả năng tác phẩm tạo ra sự hồi đáp ở người tiếp nhận.

            - Độ đậm đặc của thông tin thẩm mĩ được tác phẩm với những phương tiện nghệ thuật của nó chuyển tải.

Phương thức trình bày nghệ thuật trong văn bản nghệ thuật không phải được mở ngỏ hoàn toàn cho bất cứ cách cắt nghĩa nghệ thuật nào. Thật sai lầm nếu tưởng rằng người đọc có thể hoàn toàn theo ý riêng của mình để tiếp nhận tác phẩm. Có một sợi chỉ đỏ chạy xuyên suốt văn bản tác phẩm và buộc người tiếp nhận chỉ được lĩnh hội tác phẩm theo một số cách ưu tiên. Đó là "đề án tiếp nhận" của tác phẩm.

Trong cộng đồng lý giải của người đọc do vị trí xã hội, trình độ văn hóa, do thói quen nghề nghiệp chỉ có số mã hạn định và kiểu cách không đồng đều để giải mã tác phẩm. Dù sao thì cách hiểu tác phẩm do tác giả đã lặng lẽ đề nghị trong "đề án tiếp nhận" của tác phẩm vẫn là cách hiểu chụm nhất và đúng nhất đảm bảo chân lý nghệ thuật trong tiếp nhận văn chương.

Giữa cộng đồng lý giải tác phẩm văn chương tồn tại những "khoảng cách thẩm mĩ" Trước hết đó là khoảng cách thẫm mĩ giữa những người tiếp nhận và tác phẩm văn học. Đó là điều hiển nhiên bởi vì người đọc tác phẩm đang tiếp cận với một mô hình nghệ thuật chứ không phải là nắm bắt một hiện tượng hay một quá trình thực tế hiện thực. Với ý nghĩa đó Lênin đã từng nói "những tác phẩm nghệ thuật không cần đòi hỏi sự xác nhận chúng như là hiện thực". Tuy vậy nhưng cũng không thể ngây thơ nhận định rằng tác phẩm nghệ thuật chỉ là sự bịa đặt đầy lầm lẫn. Ngược lại chúng là một thành phần của quá trình giao tiếp nghệ thuật giữa nhà văn và chủ thể tiếp nhận. Chính vì vậy tác phẩm văn chương là yếu tố của hiện thực xã hội đã được con người sáng tạo nên và có mối quan hệ tác động qua lại thường xuyên với người đọc.

Với tư cách là một mô hình, tác phẩm văn học không đồng nhất với những gì xuất hiện trên mặt giấy. Điều đó có nghĩa tác phẩm chỉ là điều kiện tạo nên quan hệ để rút ra những hành động thực tiễn của người tiếp nhận đối với những tình huống được trình bày, mô tả trong tác phẩm mà không liên quan tới những sự kiện diễn ra trong những điều kiện thực tế.

Có rất nhiều nguyên nhân dẫn tới khoảng cách thẩm mĩ. Về cơ bản có thể kể đến sự hiểu biết về phương thức trình bày nghệ thuật, ngôn ngữ văn học, quan niệm về bản chất, chức năng văn học và những nhu cầu, thị hiếu, thói quen thẩm mĩ. Tóm lại đó là tri thức chuyên môn là trình độ văn hóa, là đặc điểm tâm lý của cá nhân, của thế hệ và của thời đại khi tiếp nhận văn học.

Sự tồn tại khoảng cách thẩm mĩ trong tiếp nhận văn học còn phụ thuộc vào các nhóm độc giả khác nhau. Để đơn giản hóa việc phân loại độc giả người ta chỉ chia ra:

            - Loại độc giả thực tế. Xét về mặt xã hội, đây là những người đọc cụ thể diễn ra trong lịch sử tiếp nhận tác phẩm.

            - Loại người đọc giả định. Xét về mặt tâm lý, đó là hình ảnh người đọc xuất hiện trong quá trình sáng tạo tác phẩm của nhà văn.

            - Loại độc giả tinh hoa xét về mặt thẩm mĩ bao gồm những người đọc có trình độ chuyên ngành văn học. Những người được đào tạo, giáo dục cơ bản và tiếp tục được phát triển trong chuyên ngành cũng như tự học có kết quả.

Mỗi loại độc giả trên lại có những khoảng cách thẩm mi khác nhau nhưng tựu trung họ có những điểm chung. Loại bạn đọc thực tế thường cảm nhận tác phẩm tự phát và tùy hứng. Đặc điểm chung trong tiếp nhận văn học của những độc giả này là đi tìm sự đồng điệu, cảm thông của tâm hồn và trạng thái tình cảm cá nhân. Tiêu chí của sự đánh giá trong tiếp nhận lệ thuộc chủ yếu vào kinh nghiệm sống và cuộc đời thực tế. Ưu thế của lối tiếp nhận văn học ở họ là thiên về trực cảm, hồn nhiên. Bởi thế những độc giả này khi tiếp nhận văn học thường nhận định chủ quan. Mối quan hệ giữa nhận thức, đánh giá và thưởng thức không diễn ra đồng bộ.

Loại người đọc giả định là một bộ phận nhỏ của độc giả thực tế. Họ có thuận lợi cơ bản là có thể tìm thấy những hình tượng quen thuộc của giới mình trong tác phẩm. Vì thế kênh phản ánh và kênh tiếp nhận có nhiều cơ hội và điều kiện khai thông. Sự tiếp nhận qua những đặc điểm tâm lý nghệ thuật, bao gồm nhu cầu, thị hiếu và lý tưởng thẩm mĩ là ưu điểm của loại bạn đọc này.

Loại độc giả tinh hoa tiếp nhận văn học trên cơ sở hiểu biết đầy đủ và sâu sắc về tri thức văn học. Họ hiểu rõ tác phẩm văn học là hình thức phản ánh cuộc đời bằng phương tiện nghệ thuật do cá tính sáng tạo của nhà văn. Trong quá trình tiếp nhận văn học, trình độ thích ứng của lớp độc giả này với sự phát triển và tiến bộ của văn học trong sự phản ánh cuộc sống là nổi bật.

Ưu thế của họ là thiên về tri thức chuyên ngành. Quá trình tiếp nhận văn học ở họ đảm bảo được sự hài hòa giữa nhận thức đánh giá và thưởng thức thẩm mĩ. Họ là những người tổng hợp, xây dựng nên những chuẩn cứ để đánh giá văn học và những giá trị ngày càng hoàn chỉnh, phù hợp với sự phát triển nội tại của văn học. Như vậy tiếng nói quyết định cuối cùng khi đánh giá chất lượng tiếp nhận văn học, chân lí nghệ thuật của tác phẩm văn học thuộc về cộng đồng lý giải chúng. Loại độc giả thực tế sẽ phát huy sức mạnh sự thật của đời sống và sự lắng kết kinh nghiệm nghệ thuật trong thời gian. Lớp người đọc giả định (Jean P.Sartre gọi là người đọc tiềm tàng) sẽ góp phần khẳng định nhu cầu, thị hiếu, thói quen và lý tưởng thẩm mĩ. Điều đó đóng góp quan trọng vào quá trình sáng tạo văn học và làm nên dáng dấp văn học một thời. Loại độc giả tinh hoa đóng góp chủ yếu vào việc thẩm định văn học, phát biểu khách quan về chân lý nghệ thuật và giá trị đích thực của văn học. Họ là những người phát triển những chuẩn cứ đánh giá văn học khách quan.

Giải quyết thấu đáo mối quan hệ biện chứng giữa lý trí và tình cảm giữa cá nhân và tập thể, giữa lịch sử và thời đại, giữa tính văn học và tính xã hội của văn học là mục đích phấn đấu của cả ba loại độc giả này. Sự phối hợp hiệu quả đọc văn chương của cả ba loại độc giả trên về một trào lưu, một giai đoạn hay một tác phẩm văn học sẽ là một tham số đáng tin cậy trong tiếp nhận văn học của bất cứ thời đại nào.

11 - 1999
N.T.H
(134/04-00)



 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN DƯƠNG CÔN   (Tiếp Sông Hương số 11-2008)Bản thể con người chỉ cấu trúc bằng cảm giác và những gì là biến tướng khả dĩ của cảm giác mà không từ bỏ cấu trúc thiên định bao gồm kết cấu thực và kết cấu ảo của cảm giác. Nếu hình dung kết cấu thực là trạng thái mô phỏng thế giới, nghĩa là cái quan hệ hấp dẫn giữa xung động thần kinh não bộ con người với xung động tiếp nhận thế giới, thì chúng ta hình dung được kết cấu ảo chỉ là sản phẩm thuần tuý do xung động nội tại của thần kinh não bộ con người.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNGPhân tâm học ra đời trong ánh bình minh của thế kỷ hai mươi. Ảnh hưởng của nó đối với sáng tạo và phê bình văn học khởi đi từ cuốn “Diễn dịch các giấc mơ” của Freud và được nối dài sau đó bởi nhiều công trình của các tác giả khác nhau.

  • CAO HUY THUẦNToàn cầu hóa đang là một xu thế, một hiện tượng rộng lớn bao trùm khắp thế giới, không chỉ về kinh tế mà cả trong lĩnh vực văn hóa và đời sống. Toàn cầu hóa và chống toàn cầu hóa đã trở thành vấn đề thời sự của thế giới. Trong bối cảnh đó, yêu cầu gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là một đòi hỏi cấp thiết, có tính sống còn của mỗi dân tộc khi phải đối mặt với xu thế toàn cầu hóa, đặc biệt là trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa.Sông Hương xin giới thiệu một phần bài viết của Cao Huy Thuần như một góc nhìn thú vị về những vấn đề gai góc của thời đại.

  • NGUYỄN VĂN DÂN(*)LTS: Hội nghị Lý luận phê bình văn học lần thứ 2 của Hội Nhà văn Việt Nam diễn ra 2 ngày 4 và 5 tháng 10 năm 2006 đã khép lại nhưng âm vang của nó vẫn còn “đồng hiện” theo 2 cực... buồn vui, cao thấp. Song, dù sao nó cũng đã phản ánh đúng thực trạng, đúng “nội tình” của đời sống văn học nước nhà.

  • PHẠM PHÚ PHONGMấy chục năm qua, người đọc biết ông qua những kịch bản thơ, những bài thơ viết về tình bạn, tình yêu; về những cuộc chia tay lên đường ra trận; về đất và người Hà Nội đầy khí thế hoành tráng của tâm thế sử thi; nhưng cũng có khi bí hiểm, mang tâm trạng thế sự buồn cháy lòng của một người sống âm thầm, đơn độc, ít được người khác hiểu mình.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN(Đọc Tư- duy tự- do của Phan Huy Đường*)

  • TRẦN HOÀI ANHBáo Văn nghệ trong lời giới thiệu những bài thơ mới nhất của Nguyễn Khoa Điềm số ngày 5/8/2006 cho biết: “Bây giờ ông đã trở về ngôi nhà của cha mẹ ông ở Huế. Tôi chưa bao giờ đến ngôi nhà ấy”. Còn tôi, người viết bài này đã có “cơ may” ở trọ tại ngôi nhà yên bình ấy trong những năm tám mươi của thế kỉ trước khi tôi đang là sinh viên ngữ văn Đại học Sư phạm Huế.

  • NGUYỄN NGỌC THIỆN(Kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Lan Khai (1906-2006)Đầu năm 1939, Vũ Đình Long, chủ Nhà xuất bản Tân Dân có sáng kiến xin giấy phép xuất bản ấn hành tạp chí TAO ĐÀN. Đây là tạp chí chuyên ngành về văn học đầu tiên trong làng báo ở ta trước Cách mạng tháng 8 năm 1945.

  • NGUYỄN TÀI CẨN, PHAN ANH DŨNG1/ Tiến sĩ Đào Thái Tôn vừa cho xuất bản cuốn “Nghiên cứu văn bản Truyện Kiều: bản Liễu Văn Đường 1871”. Chúng tôi thành thực hoan nghênh: hoan nghênh không phải vì trong cuốn sách đó có những chỗ chúng tôi được Tiến sĩ tỏ lời tán đồng, mà ngược lại, chính là vì có rất nhiều chỗ Tiến sĩ tranh luận, bác bỏ ý kiến của chúng tôi.

  • TÔN PHƯƠNG LAN1. Phong Lê là người ham làm việc, làm việc rất cần cù. Anh là người suốt ngày dường như chỉ biết có làm việc, lấy công việc làm niềm vui cho bản thân và gia đình. Anh sống ngăn nắp, nghiêm túc trong công việc nhưng là người ăn uống giản đơn, sinh hoạt tùng tiệm.

  • THỤY KHUÊLGT: “Thụy Khuê là một nhà phê bình văn học Việt Nam sắc sảo ở Pháp” (Trần Đình Sử, Văn học Việt Nam thế kỷ XX, NXBGD Hà Nội, 2005) Bà đã viết về mục tác giả Bùi Giáng và một số tác giả miền Nam trước 1975 cho “Tự điển văn học” bộ mới. Bài viết về Thanh Tâm Tuyền cũng dành cho bộ Từ điển nói trên. Chúng tôi đăng bài viết này để tưởng nhớ nhà thơ Thanh Tâm Tuyền vừa mới qua đời.

  • HỒ THẾ HÀĐồng cảm và sáng tạo (*): Tập phê bình-tiểu luận văn học mới nhất của nhà phê bình nữ Lý Hoài Thu. Tập sách gồm 30 bài viết (chủ yếu là phê bình-tiểu luận và 5 bài trao đổi, phỏng vấn, trả lời phỏng vấn), tập trung vào mảng văn học hiện đại Việt Nam với sự bao quát rộng về đề tài, thể loại và những vấn đề liên quan đến phê bình, lý luận văn học, đời sống văn học từ 1991 đến nay.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHHôm Tết vừa rồi, anh Đỗ Lai Thúy ghé thăm Huyền Không Sơn Thượng và có tặng tôi một tập sách. Nội dung, anh đã phác thảo chân dung học thuật của 17 nhà nghiên cứu. Công trình thật là công phu, khoa học, nhiều thao tác tư duy, nhiều tầng bậc chiêm nghiệm... hàm tàng một sở học nghiêm túc, đa diện và phong phú.

  • TRÚC THÔNGLTS: Cuộc hội thảo Thơ Huế trong mạch nguồn thơ Việt do Hội Nhà văn TT Huế tổ chức nhân dịp Festival Thơ Huế 2006 đã “truy cập” được nhiều nhà thơ, nhà lý luận- phê bình tham dự.Tiếp theo số tháng 6, trong số tháng 7 này, Sông Hương xin trích đăng thêm một số tham luận và ý kiến về cuộc hội thảo nói trên.

  • PHẠM XUÂN NGUYÊNTrước hết tôi muốn phân định một khái niệm thơ Huế, ít nhất là trong bài viết này của tôi. Thơ Huế là một khái niệm tưởng cụ thể nhưng lại khá mơ hồ. Thế nào là thơ Huế? Có phải đó là thơ viết về Huế và thơ của người Huế viết. Mặc nhiên mọi người đều hiểu thế. Thơ viết về Huế thì có của người gốc Huế, người đang sống ở Huế và người ở khắp mọi nơi.

  • INRASARATham luận Festival Thơ Huế lần 2 tại Huế 05 và 06/6/2006Tràn lan cái giống thơ:Cái giống thơ là sản phẩm dễ gây nhầm lẫn và ngộ nhận. Ngộ nhận nên quá nhiều người làm thơ, nhà nhà làm thơ. Rồi tập thơ được in ra hàng loạt để...tặng. Và khốn thay, không ai đọc cả! Vụ lạm phát thơ được báo động mươi năm qua là có thật. Không thể, và cũng không nên chê trách hiện tượng này. Thử tìm nguyên do.

  • TÂM VĂNĐã hơn hai thế kỷ rồi mà nay đọc bài “Lập học chiếu” (Chiếu chỉ thành lập trường học) của Ngô Thời Nhậm vẫn nóng lên như những dòng thời sự.

  • HỒ THẾ HÀVới điểm nhìn ngược chiều từ khởi đầu thế kỷ XXI (2006) hướng về cội nguồn khai sinh vùng đất Thuận Hoá - Phú Xuân - Huế (1306), chúng ta thấy vùng đất này đã có 700 lịch sử thăng trầm, vinh quang và bi tráng.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNGVô thức là những hoạt động tinh thần mà chúng ta không thể nhận thức ra được. Trong tác phẩm nổi tiếng của mình, Diễn dịch các giấc mơ, Freud lần đầu tiên đề nghị khái niệm vô thức (unconscious) để phân biệt với ý thức (conscious) và tiềm thức (preconscious), sau này gọi là lý thuyết topo.