Cộng đồng lý giải - một tham số tin cậy trong tiếp nhận văn chương

09:08 25/03/2010
NGUYỄN THANH HÙNGTiếp nhận văn học thực sự diễn ra dưới ảnh hưởng của đặc điểm cuộc sống trong cộng đồng lý giải tác phẩm. Có được ý nghĩa phong phú của văn bản nghệ thuật là nhờ sự tiếp nhận của các thành viên độc giả tạo ra. Chính những ý nghĩa ấy chứ không phải bản thân văn bản, thậm chí không phải cả dụng ý của tác giả là điểm khởi đầu cho "chiều dài thương lượng" về giá trị của tác phẩm văn học trong lịch sử.

Ảnh: sggp.org.vn

Ý nghĩa của một tác phẩm văn học không phải là bộ phận quan trọng nhất của văn bản mà là sự sống trải nghiệm và năng lực hiểu biết đặc trưng nghệ thuật văn chương mà mỗi người đọc có được trong quá trình tiếp nhận. Cần phải thấy sự hạn chế của kiểu phân tích thuần túy theo đúng văn bản, một kiểu phân tích tác phẩm khép kín diễn ra thông qua sự từ bỏ mọi mô hình giải thích dựa trên kiến thức của người phân tích. Cấu trúc nội bộ văn bản chỉ mới mang tính chất tiềm tàng trong khi độc giả chưa biến chúng thành hiện thực bằng việc đọc và đánh giá chúng. Không có lý do khoa học nào chắc chắn để nói rằng một thông điệp thẩm mỹ tự khắc được giải mã theo cách nó đã được nhập mã. Sự trùng khớp giữa giải mã và nhập mã về mặt xã hội học có thể được thực hiện với các chuyên gia, song độc giả nói chung không chỉ rút ra từ tác phẩm sự thỏa mãn bất ngờ của nhà phân tích mà họ cũng có thể cưỡng lại áp lực tư tưởng mà tác phẩm muốn tác động hoặc thay đổi những ý nghĩa mà văn bản nghệ thuật gợi ý hướng dẫn sự quan tâm của người đọc.

Công chúng tiếp nhận văn học là một hiện tượng phức tạp không thể xem nhẹ. Nghiên cứu sự tiếp nhận văn chương và kết quả đáng tin cậy của tiếp nhận phải lắng nghe và tôn trọng tiếng nói của các thành viên trong công chúng độc giả đó. Hiệu quả công việc này sẽ chấm dứt lối tiếp nhận chỉ tập trung vào nhà văn. Tiếp nhận văn học không thể bằng lòng tuân theo cách khảo sát và nghiên cứu hình ảnh người tiếp nhận thông qua văn bản nghệ thuật của tác giả.

Độc giả rộng rãi của tác phẩm là phần đáng để tìm hiểu khả năng và kết quả của cách "trò chuyện hai chiều" để đi đến những nhận định đúng sai, hay dở về một tác phẩm văn học.

Theo xu hướng thuyết phục nghệ thuật tuyệt đối, người ta nghĩ rằng nhà văn khi trao cho xã hội tác phẩm của mình, họ có toàn quyền kiểm soát hiệu quả tư tưởng, tình cảm của người đọc. Không phải thế, tư tưởng bá quyền (hégémonie) của tác giả chỉ là ảo tưởng. Cá nhân người tiếp nhận văn học có thể giải mã theo những thông điệp nghệ thuật nhà văn đã nhập mã vào tác phẩm. Bên cạnh đó người vẫn có thể tạo ra một kiểu giải mã gần đúng với mã của tác phẩm hoặc có thể dùng một mã hoàn toàn trái ngược với mã hiệu của tác giả. Có thể thấy vai trò tích cực năng động của các cá nhân tiếp nhận trong cách họ tự tạo nên kiểu nhận thức riêng của mình đối với nội dung văn bản nghệ thuật và trong cách thức họ tìm thấy ý nghĩa trong các thông điệp thẩm mỹ mà họ tiếp cận. Trường phái ký hiệu học ngôn ngữ không thừa nhận tần số xuất hiện các biểu trưng văn học là chỉ số của nội dung tư tưởng được thể hiện. Trái lại nó được tập trung vào việc khảo sát mối quan hệ cấu trúc giữa các biểu trưng văn học và coi chúng là những thành phần ý nghĩa nội dung nghệ thuật của tác phẩm. Cuối cùng nhưng biểu trưng văn học này lại khôi phục nội dung tiềm tàng của thông điệp thẩm mỹ vượt qua sự tương ứng giản đơn với nội dung hiện thực được thể hiện để khảo sát những ý nghĩa tiềm ẩn trong đó.

Không thể đánh giá các "quyền" của cá nhân người tiếp nhận văn học đến mức hoàn toàn không còn nhìn thấy đúng mức tác phẩm văn học với tư cách là đối tượng thẩm mĩ đã tác động mạnh mẽ, toàn diện đến người tiếp nhận. Đó là điều cần nói để giải thuyết sự tự do vô hạn ở người đọc.

Nhiều năm nay giới nghiên cứu lý thuyết tiếp nhận quan tâm đến vấn đề người đọc sáng tạo, tham gia tích cực vào sự hiểu biết tác phẩm văn chương thông qua quá trình xây dựng biểu tượng với những ý nghĩa đặc biệt gắn liền với nội dung các thông điệp họ nhận được. Trọng tâm của vấn đề được chuyển từ "qui trình giải mã thông điệp" sang sự tập trung chú ý vào ngữ nghĩa học hay là quá trình xã hội hóa tác phẩm nhằm vào quá trình người đọc có nắm vững được ý nghĩa của các thông điệp được hình thức hóa trong tác phẩm hay không chứ không không phải chỉ là nhằm vào cảm giác thỏa mãn tâm lý của họ.

Văn bản nghệ thuật được lưu giữ nhờ chữ in đã thúc đẩy người đọc huy động năng lực thị giác hơn là thính giác và xúc giác làm cho môi trường quan hệ giữa các giác quan thay đổi cơ chế hoạt động. Thị giác tạo điều kiện nhiều hơn cho những hoạt động phân tích trí tuệ trong khi thính giác và xúc giác lại tạo điều kiện tốt hơn cho xúc cảm và trực giác.

Phải đi tiếp chặng đường nghiên cứu tiếp nhận bằng cách tìm hiểu đặc tính vật thể của văn bản nghệ thuật và các phương tiện chuyển tải thông tin thẩm mĩ trong tác phẩm cũng như ảnh hưởng của đặc tính vật thể ấy đến cuộc sống tinh thần của người tiếp nhận.

Cần nhận thức rõ ràng tiếp nhận tác phẩm văn học là tiếp nhận cái gì? Thông tin hay là sự nhập cuộc và dấn thân vào nghệ thuật. Người ta thường phân biệt "phương tiện nóng" và "phương tiện lạnh" trong ý đồ tác động của nhà văn đến người đọc. Phương tiện nóng được hiểu như là sự khêu gợi chủ quan đi kèm theo với nhiệt tình dẫn dắt đối thoại của tác giả, không đòi hỏi người tiếp nhận phải tham gia nhiều vào quá trình đồng hóa tác phẩm. Phương tiện nóng thường kéo dài đối với một giác quan nào đó và tạo ra mức độ tiếp thu thông tin cao hơn bởi tính chất động lực cuốn hút của nó. Phương tiện lạnh thì lại tác động sâu và cùng lúc đánh vào nhiều giác quan, chỉ cung cấp thông tin ở mức độ thấp nhưng lại đòi hỏi người tiếp nhận phải nhập thân và nếm trải thẩm mĩ. Điều này gợi cho chúng ta nghĩ về mục đích của tác phẩm không chỉ là thông tin mà là tạo ra môi trường văn hóa thẩm mĩ thích hợp để người đọc cùng sống trong môi trường đó. Mục đích hoạt động của cơ chế tiếp nhận văn học là chuyển hóa người tiếp thụ thông tin từ chủ thể tiếp nhận thành người tham dự vào nhưng biến cố và số phận con người trong tác phẩm. Chất lượng của thông tin lạnh này được thể hiện ở mức độ thỏa mãn và hòa nhập của người tiếp nhận vào đời sống của tác phẩm văn học.

Ít ra cũng cần phải lưu ý những nội dung sau đây trong cơ chế tiếp nhận:

            - Người tiếp nhận cần tham dự tới mức độ nào vào cuộc sống tác phẩm.

            - Khả năng đồng nhất các khoảng cách thẩm mĩ - tức là khả năng tác phẩm tạo ra sự hồi đáp ở người tiếp nhận.

            - Độ đậm đặc của thông tin thẩm mĩ được tác phẩm với những phương tiện nghệ thuật của nó chuyển tải.

Phương thức trình bày nghệ thuật trong văn bản nghệ thuật không phải được mở ngỏ hoàn toàn cho bất cứ cách cắt nghĩa nghệ thuật nào. Thật sai lầm nếu tưởng rằng người đọc có thể hoàn toàn theo ý riêng của mình để tiếp nhận tác phẩm. Có một sợi chỉ đỏ chạy xuyên suốt văn bản tác phẩm và buộc người tiếp nhận chỉ được lĩnh hội tác phẩm theo một số cách ưu tiên. Đó là "đề án tiếp nhận" của tác phẩm.

Trong cộng đồng lý giải của người đọc do vị trí xã hội, trình độ văn hóa, do thói quen nghề nghiệp chỉ có số mã hạn định và kiểu cách không đồng đều để giải mã tác phẩm. Dù sao thì cách hiểu tác phẩm do tác giả đã lặng lẽ đề nghị trong "đề án tiếp nhận" của tác phẩm vẫn là cách hiểu chụm nhất và đúng nhất đảm bảo chân lý nghệ thuật trong tiếp nhận văn chương.

Giữa cộng đồng lý giải tác phẩm văn chương tồn tại những "khoảng cách thẩm mĩ" Trước hết đó là khoảng cách thẫm mĩ giữa những người tiếp nhận và tác phẩm văn học. Đó là điều hiển nhiên bởi vì người đọc tác phẩm đang tiếp cận với một mô hình nghệ thuật chứ không phải là nắm bắt một hiện tượng hay một quá trình thực tế hiện thực. Với ý nghĩa đó Lênin đã từng nói "những tác phẩm nghệ thuật không cần đòi hỏi sự xác nhận chúng như là hiện thực". Tuy vậy nhưng cũng không thể ngây thơ nhận định rằng tác phẩm nghệ thuật chỉ là sự bịa đặt đầy lầm lẫn. Ngược lại chúng là một thành phần của quá trình giao tiếp nghệ thuật giữa nhà văn và chủ thể tiếp nhận. Chính vì vậy tác phẩm văn chương là yếu tố của hiện thực xã hội đã được con người sáng tạo nên và có mối quan hệ tác động qua lại thường xuyên với người đọc.

Với tư cách là một mô hình, tác phẩm văn học không đồng nhất với những gì xuất hiện trên mặt giấy. Điều đó có nghĩa tác phẩm chỉ là điều kiện tạo nên quan hệ để rút ra những hành động thực tiễn của người tiếp nhận đối với những tình huống được trình bày, mô tả trong tác phẩm mà không liên quan tới những sự kiện diễn ra trong những điều kiện thực tế.

Có rất nhiều nguyên nhân dẫn tới khoảng cách thẩm mĩ. Về cơ bản có thể kể đến sự hiểu biết về phương thức trình bày nghệ thuật, ngôn ngữ văn học, quan niệm về bản chất, chức năng văn học và những nhu cầu, thị hiếu, thói quen thẩm mĩ. Tóm lại đó là tri thức chuyên môn là trình độ văn hóa, là đặc điểm tâm lý của cá nhân, của thế hệ và của thời đại khi tiếp nhận văn học.

Sự tồn tại khoảng cách thẩm mĩ trong tiếp nhận văn học còn phụ thuộc vào các nhóm độc giả khác nhau. Để đơn giản hóa việc phân loại độc giả người ta chỉ chia ra:

            - Loại độc giả thực tế. Xét về mặt xã hội, đây là những người đọc cụ thể diễn ra trong lịch sử tiếp nhận tác phẩm.

            - Loại người đọc giả định. Xét về mặt tâm lý, đó là hình ảnh người đọc xuất hiện trong quá trình sáng tạo tác phẩm của nhà văn.

            - Loại độc giả tinh hoa xét về mặt thẩm mĩ bao gồm những người đọc có trình độ chuyên ngành văn học. Những người được đào tạo, giáo dục cơ bản và tiếp tục được phát triển trong chuyên ngành cũng như tự học có kết quả.

Mỗi loại độc giả trên lại có những khoảng cách thẩm mi khác nhau nhưng tựu trung họ có những điểm chung. Loại bạn đọc thực tế thường cảm nhận tác phẩm tự phát và tùy hứng. Đặc điểm chung trong tiếp nhận văn học của những độc giả này là đi tìm sự đồng điệu, cảm thông của tâm hồn và trạng thái tình cảm cá nhân. Tiêu chí của sự đánh giá trong tiếp nhận lệ thuộc chủ yếu vào kinh nghiệm sống và cuộc đời thực tế. Ưu thế của lối tiếp nhận văn học ở họ là thiên về trực cảm, hồn nhiên. Bởi thế những độc giả này khi tiếp nhận văn học thường nhận định chủ quan. Mối quan hệ giữa nhận thức, đánh giá và thưởng thức không diễn ra đồng bộ.

Loại người đọc giả định là một bộ phận nhỏ của độc giả thực tế. Họ có thuận lợi cơ bản là có thể tìm thấy những hình tượng quen thuộc của giới mình trong tác phẩm. Vì thế kênh phản ánh và kênh tiếp nhận có nhiều cơ hội và điều kiện khai thông. Sự tiếp nhận qua những đặc điểm tâm lý nghệ thuật, bao gồm nhu cầu, thị hiếu và lý tưởng thẩm mĩ là ưu điểm của loại bạn đọc này.

Loại độc giả tinh hoa tiếp nhận văn học trên cơ sở hiểu biết đầy đủ và sâu sắc về tri thức văn học. Họ hiểu rõ tác phẩm văn học là hình thức phản ánh cuộc đời bằng phương tiện nghệ thuật do cá tính sáng tạo của nhà văn. Trong quá trình tiếp nhận văn học, trình độ thích ứng của lớp độc giả này với sự phát triển và tiến bộ của văn học trong sự phản ánh cuộc sống là nổi bật.

Ưu thế của họ là thiên về tri thức chuyên ngành. Quá trình tiếp nhận văn học ở họ đảm bảo được sự hài hòa giữa nhận thức đánh giá và thưởng thức thẩm mĩ. Họ là những người tổng hợp, xây dựng nên những chuẩn cứ để đánh giá văn học và những giá trị ngày càng hoàn chỉnh, phù hợp với sự phát triển nội tại của văn học. Như vậy tiếng nói quyết định cuối cùng khi đánh giá chất lượng tiếp nhận văn học, chân lí nghệ thuật của tác phẩm văn học thuộc về cộng đồng lý giải chúng. Loại độc giả thực tế sẽ phát huy sức mạnh sự thật của đời sống và sự lắng kết kinh nghiệm nghệ thuật trong thời gian. Lớp người đọc giả định (Jean P.Sartre gọi là người đọc tiềm tàng) sẽ góp phần khẳng định nhu cầu, thị hiếu, thói quen và lý tưởng thẩm mĩ. Điều đó đóng góp quan trọng vào quá trình sáng tạo văn học và làm nên dáng dấp văn học một thời. Loại độc giả tinh hoa đóng góp chủ yếu vào việc thẩm định văn học, phát biểu khách quan về chân lý nghệ thuật và giá trị đích thực của văn học. Họ là những người phát triển những chuẩn cứ đánh giá văn học khách quan.

Giải quyết thấu đáo mối quan hệ biện chứng giữa lý trí và tình cảm giữa cá nhân và tập thể, giữa lịch sử và thời đại, giữa tính văn học và tính xã hội của văn học là mục đích phấn đấu của cả ba loại độc giả này. Sự phối hợp hiệu quả đọc văn chương của cả ba loại độc giả trên về một trào lưu, một giai đoạn hay một tác phẩm văn học sẽ là một tham số đáng tin cậy trong tiếp nhận văn học của bất cứ thời đại nào.

11 - 1999
N.T.H
(134/04-00)



 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGÔ TỰ LẬP(Tiếp theo TCSH số 127/9-99)

  • NGÔ TỰ LẬP1.Platon nói rằng không thể có sự bình đẳng của những kẻ vốn không bình đẳng về mặt năng lực tự nhiên. Đó là xã hội người, nhưng chúng ta cũng có thể nói tương tự như vậy về xã hội từ ngữ.

  • ĐÀO DUY HIỆP    “Hội làng mở giữa mùa thu     Giời cao gió cả giăng như ban ngày”                                            (Nguyễn Bính)

  • YURI BONDAREVTên tuổi của nhà văn Nga Yuri Bônđarép rất gần gũi với bạn đọc Việt Nam qua những tác phẩm nỗi tiếng của ông đã được dịch ở ta vào thập kỷ 80 như: "Các tiểu đoàn xin chi viện", "Tuyết bỏng", "Bến bờ", "Lựa chọn", "Trò chơi"... Là một trong những nhà văn Xô Viết hàng đầu miêu tả hùng hồn và chân thực chủ nghĩa anh hùng cách mạng của quân và dân Liên Xô trong cuộc chiến tranh vệ quốc thần thánh chống phát xít Đức 1941- 1945, Bônđarép đã được phong Anh hùng lao động xã hội chủ nghĩa, được tặng giải thưởng Lênin, các giải thưởng Quốc gia, giải thưởng Lép Tônxtôi và M.Sôlôkhốp, giải thưởng toàn Nga "Xtalingrát"...

  • TRẦN ĐÌNH SỬVăn học Trung Quốc trong cơ chế thị trường đã có những biến đổi khá lớn. Theo các tác giả của sách Văn học Trung Quốc thế kỷ XX xuất bản tại Quảng Châu năm 1988 có thể nắm được một đôi nét diện mạo, chứng tỏ văn học Trung Quốc không còn có thể tồn tại theo phương thức cũ. Cơ chế thị trường đã làm cho nhà văn và nhà phê bình phải suy tính lại về sách lược sinh tồn và phương hướng phát triển nghề nghiệp.

  • ĐOÀN TUẤNThạch Lam qua đời cách đây đã hơn nửa thế kỉ. Ông để lại cho chúng ta một khối lượng tác phẩm không lớn nhưng chúng đã trở thành một mẫu số vĩnh hằng trong văn học Việt Nam. Tiếc rằng chúng ta đã không thể lưu giữ một bức chân dung nào của Thạch Lam. Thậm chí mộ ông được chôn cất nơi nào, cũng không ai biết.

  • NHẬT CHUNG       (Đọc bài thơ XÓM LỤT của anh Phạm Xuân Phụng)Anh Phụng là bác sĩ ở Bệnh viện Trung ương Huế. Tôi tìm hết trong tuyển tập HAI THẬP KỶ THƠ HUẾ, chỉ duy nhất bài thơ này viết về cảnh lụt lội hàng năm vẫn xảy ra ở mảnh đất nghèo khó. Trong những ngày đau buồn, khi nước vừa rút, trắng bợt trước mắt tôi những bài thơ tình èo uột nỉ non ẻo lả, và đứng dậy trước mắt tôi một bài thơ XÓM LỤT.

  • PHONG  LÊBến không chồng - Giải thưởng Hội Nhà văn năm 1991 đưa nhanh Dương Hướng lên một vị trí cao trong thành tựu văn học Đổi mới. Không thuộc đội ngũ “tiền trạm” xuất hiện từ đầu những năm 80 như Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Mạnh Tuấn (sinh năm 1948) - người cùng thế hệ với anh (sinh 1949), đến tuổi 40 mới bắt đầu trình làng với tập truyện ngắn Gót son (1989), thế mà chỉ 2 năm sau, Dương Hướng bỗng trở thành một “tên tuổi” với Bến không chồng, góp mặt cùng Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh làm nên một bộ ba sáng giá trong văn học mở đầu thập niên 90, năm năm sau khởi động của công cuộc Đổi mới.

  • HÀ QUANG MINHLTS: Liệu có phải văn hóa chỉ đơn thuần là văn hóa hay nói cách khác là chỉ chứa đựng các yếu tố văn hóa không? Câu trả lời chắc chắn là không. Văn hóa mang cả trong nó tính chính trị và kinh tế. Trong khuôn khổ bài viết này, chỉ nhắc tới tính kinh tế trong văn hóa mà thôi nhưng hy vọng nó sẽ đóng góp nhiều cho công cuộc xây dựng một xã hội văn minh hơn, công bằng hơn.

  • ĐỖ LAI THÚYVề Kinh Bắc với những hội hè, chùa chiền, với đồng chiều cuống rạ, dây bìm bìm, bí lông tơ, giun đất, con gà trụi, châu chấu.. làm người đọc nhớ đến dòng thơ viết về nông thôn, nhất là thơ Nguyễn Bính. “ Trong các nhà thơ cùng thời viết về nông thôn như Bàng Bá Lân, Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ... có lẽ chỉ có Nguyễn Bính là nhận thức sâu sắc được sự thay đổi của thôn quê trước “ cuộc xâm lăng” của đô thị.

  • TRẦN VĂN TOÀN - NGUYỄN XUÂN DIÊN1. Ảnh hưởng của Thơ Đường đối với Thơ Mới là một vấn đề từ lâu đã được đề cập tới. Ngay từ năm 1942, Hoài Thanh- Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam mặc dù giành nhiều trang để miêu tả ảnh hưởng của thơ Pháp (đặc biệt là trường phái Tượng trưng) nhưng các ông đã trân trọng và có một chút hứng thú đặc biệt về ảnh hưởng của Thơ Đường đối với Thơ Mới (điều này được bộc lộ qua công phu miêu tả, khảo cứu và cụ thể hơn từ chính số lượng trang viết). Khi phân chia các dòng mạch Thơ Mới, Hoài Thanh- Hoài Chân nói tới dòng mạch chịu ảnh hưởng của thơ Pháp, dòng mạch mang tính cách Việt, đồng thời cũng nói tới dòng mạch chịu ảnh hưởng từ Đường thi.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN…Trong thời kỳ đổi mới xuất hiện nhiều tác phẩm cảm hứng phê phán rất mạnh. Có những quan điểm và giọng điệu phê phán rất khác nhau: xót xa và lo thương, căm uất và hằn học, tỉnh táo và điềm đạm... Cảm hứng phê phán mang tinh thần hài hước khoan hòa sẽ tạo một vị trí đặc biệt cho Nguyễn Việt Hà trong văn xuôi Việt Nam đương đại…

  • ALEXANDER GENISTrên thị trường Mỹ đã xuất hiện những cuốn sách điện tử đầu tiên. “Softbook” - một đĩa điện tử có màn hình bọc da. Sức chứa - 100 000 trang, trọng lượng - 15 kg, giá cả - 300 đôla cộng 10 đôla kết nối mỗi tháng. “Paketbook” giá 500 đôla, nhưng đi kèm với nó phải có máy tính cá nhân. “Dedicate Reader” - một sổ tay điện tử. Nó giống như một cuốn sách thực sự, có một màn hình kép chứa các bản vẽ, bản đồ, sơ đồ, bảng biểu. Giá là 1500 đôla. Như kinh nghiệm cho thấy, không ai thích đọc văn bản theo màn hình, vì thế tại viện nghiên cứu “Media-lab” người ta đang tìm cách chế tạo thứ “mực điện tử” - những cái bao hết sức nhỏ có thể tùy theo cường độ và hướng của dòng điện sắp xếp lại với nhau để tạo thành văn bản. Theo cách đó, gần như loại sách bằng giấy thông thường có thể được in lại - thay một nội dung này bằng một nội dung khác. Tờ “New York Times” viết: “Ngay giờ đây đã thấy rõ sách điện tử là điều tất yếu. Nếu như không phải là sự thay thế sách in, thì cũng là sự luân phiên nó”. (Theo báo chí)

  • TRẦN ANH PHƯƠNGCầm trên tay tập thơ "Người hái phù dung" của Hoàng Phủ Ngọc Tường tôi như đọc với chính mình giữa đêm khuya lặng lẽ bên ngọn đèn. Cảm nhận đầu tiên về thơ anh không phải thơ để đọc giữa chốn đông người hay ở trong hội trường lớn, thơ anh chỉ đến với người đọc khi chỉ còn lại một mình đối diện với chính mình, tìm lại mình trong những con chữ lan toả như từng đợt sóng, xâm chiếm choáng ngợp lòng người...

  • TRẦN THIỆN KHANH Inrasara nhập cuộc văn chương từ rất sớm. Ngòi bút của Inrasara chạm được vào những vấn đề cốt tử của nghệ thuật. Inrasara đã sống thực sự với đời sống văn chương đương thời.

  • HUYỀN SÂM - NGỌC ANH 1. Umberto Eco - nhà ký hiệu học nổi tiếng.Umberto Eco chiếm một vị trí rất đặc biệt trong nền lý luận đương đại của Châu Âu. Ông là một triết - mỹ gia hàn lâm, một nhà ký hiệu học uyên bác, một tiểu thuyết gia nổi tiếng và là giáo sư danh dự của trường Đại học Bologne ở Italia. Tư tưởng học thuật của ông đã tác động mạnh mẽ, tích cực đến đời sống trí tuệ của sinh viên và giới nghiên cứu trong suốt nửa thế kỷ qua. Ông có mặt trong danh sách của hai mươi nhà tư tưởng đương đại lớn nhất thế giới, và cũng là ứng cử viên thường trực của Viện Hàn lâm Thụy điển về việc bình chọn giải Nobel văn học.

  • ĐỖ NGUYỄN VIỆT TƯ         (Nhân đọc thơ Hoàng Vũ Thuật)Trong con người cũng như trong vũ trụ luôn luôn hiện diện một mâu thuẫn bất biến, nhờ cái khối mâu thuẫn này mà nó tồn tại, phát triển và trở nên thống nhất. Con người luôn đi tìm chính mình trong một cuộc phiêu lưu vô định, không bao giờ bằng lòng với những cái đã có, bản ngã lúc nào cũng thôi thúc sáng tạo để tìm ra cái mới. Nhà thơ luôn đồng hành với cuộc phiêu lưu của những con chữ để đi đến những miền đất lạ, những vùng cảm xúc.

  • NGUYỄN KHOA BỘI LANSau mấy tháng mưa tầm tã và lạnh thấu xương, qua đầu tháng chạp âm lịch, toàn khu Hạ Lào bắt đầu tạnh. Mặt trời lại hiện ra đem ánh sáng sưởi ấm những khu rừng bạt ngàn từ Trường Sơn lượn xuống. Ở các suối nước không còn chảy như thác đổ, ở Xê Công dòng nước cũng đã trở lại hiền hòa. Các con đường lớn, đường nhỏ bắt đầu khô ráo.

  • TRẦN ĐƯƠNGTôi được làm quen và có quan hệ cởi mở với nhà thơ Tố Hữu từ mùa thu năm 1973, sau khi ông dẫn đầu Đoàn đại biểu Đảng ta đi dự Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Đức (DKP) họp tại thành phố cảng Hăm-bugr). Từ  miền Tây, ông sang Béc-lin, Cộng hòa Dân chủ Đức, theo lời mời của Bộ chính trị Đảng xã hội chủ nghĩa thống nhất Đức (SED) với mục đích thăm, nghiên cứu và trao đổi về công tác tư tưởng giữa hai Đảng.

  • TRẦN THÁI HỌCĐến nay, vấn đề giá trị nghệ thuật không còn là vấn đề thời sự được nhiều người trong giới phê bình quan tâm bàn cãi. Sự lắng lại trong không khí phê bình về vấn đề này, vốn đã trải qua một thời kì tranh luận sôi nổi kéo dài hàng chục năm trên văn đàn gắn liền với những quan điểm triết học và mỹ học khác nhau, thậm chí đối lập nhau.