Con rồng - vị thần sông

09:43 29/03/2010
ĐẶNG VIỆT BÍCHTrong mười hai con giáp, từ lâu, người ta đã nhận thấy chỉ có mười một con là động vật có thật, được nuôi trong gia đình, là gia cầm (như gà - dậu), là gia súc (trâu - ngưu) hoặc động vật hoang dã (như hổ - dần)... Còn con Rồng - Thìn thì hoàn toàn là động vật thần thoại.

Ảnh: Internet

Rồng- Long có dạng Rắn. Có thể một động vật thuộc loài bò sát, có kích cỡ tương đối lớn, còn sót lại từ thời xa xưa, đã được làm hình mẫu đầu tiên để xây dựng nên hình tượng Rồng. Chính cư dân vùng sông nước từ lưu vực Trường Giang trở về Nam đã tham gia xây dựng nên hình tượng Rồng thần thoại. Chính từ từ Krông với nghĩa là Sông trong ngôn ngữ các dân tộc Nam Đảo (Mã Lai, Đa Đảo, Malayô - Polynesien) từ người Chàm đến các dân tộc ít người khác như Eđê, Jarai, Churu, Raglai ở Cao nguyên Trung phần đã cho ta thấy được nguồn gốc của từ Rồng. Còn từ từ Klong, Kloong... cũng với nghĩa là sông ở người Mường, bà con gần của người Việt (Kinh) mà ta có thể thấy được gốc của từ Long trong kho tàng từ Hán- Việt chính là bởi từ từ Klong, Kloong... mà ra.

Trong các miền lắm sông, nhiều suối, mà lại lắm sông dài, sông to, có nhiều ao, hồ, chuôm, có nhiều nước như vùng từ lưu vực Dương Tử trở về Nam, trong đó có Lạc Việt- Giao Chỉ mà từ những vị thần sông cụ thể nào đó (ví dụ: Thần sông Dương Tử, thần Châu Giang, thần Tả Giang, thần Hữu Giang, thần Sông Đà, thần Sông Lô, thần Sông Thao, thần sông Rum, thần Mekông, thần Me Nam...) mà khái niệm về một vị thần sông khái quát đã xuất hiện, được các tộc người gọi đó là con rồng.

Con Rồng - Long biết tích thủy, phun nước, biết bay, có lúc quan niệm dân gian cho rằng Rồng biết leo như Rắn, biết ở ruộng...

Trong quan niệm của người dân vùng nhiều sông, nước thì con sông là vô cùng quan trọng vì có nó mới có nước cung cấp cho con người để sống, lao động và tồn tại, để sản xuất lúa nước trong các vùng châu thổ các con sông, trong các thung lũng, và xây dựng một nền văn hóa một nền văn minh lúa nước với các biểu hiện chung là: ở nhà sàn, thích các lễ hội nông nghiệp, có thú chơi chơi chọi gà, chơi thả chim, chơi chọi trâu, uống rượu cần, chơi thả diều, dùng thuyền Rồng, thích sử dụng các nhạc cụ bằng tre, trúc, sử dụng trống đồng và các dụng cụ bằng đồng, có một nền văn hóa gốm phát đạt cùng văn hóa trồng lúa. Con sông hiền hòa vào mùa khô nhưng vào mùa mưa, mùa lũ thì nó vô cùng hung dữ. Lâu nay các thi sĩ, văn sĩ, nhạc sĩ... thi nhau ca ngợi dòng sông Hương đẹp nên thơ, đầy chất trữ tình, đầy thơ mộng... nhưng vào mũa lũ, lụt thì nó trở nên hung bạo, khiến cả cố đô Huế phải chìm trong biển nước, như vào đầu tháng 11/1999 vừa rồi. Sông Dương Tử vào mùa lũ cũng trở nên hung hãn. Nhìn chung các con sông ở Đông Nam Á đều hung dữ khi vào mùa nước lên. Do vậy con Rồng cũng có vẻ hung tợn, biểu hiện ở đầu và mặt Rồng.

Nhưng từ chỗ các cư dân ở Đông Nam Á cổ đại (bao gồm cả Đông Nam Á hiện nay và cả vùng đất từ lưu vực Trường Giang trở về Nam) thờ từng vị thần sông cụ thể đến chỗ khái quát các vị thần của mọi con sông vào một khái niệm Rồng là một bước tiến hết sức to lớn, khiến các con cháu của họ từ bao đời nay cứ bị ám ảnh không biết nguồn gốc của Rồng là ở đâu?

Có một câu châm ngôn là: càng học, càng nghiên cứu, càng đi sâu tìm hiểu... thì lại càng thấy dốt. Rõ ràng là càng tìm tòi nghiên cứu càng thấy rất nhiều điều mới lạ, mới mẻ và lạ lùng và càng thấy có nhiều điều khó giải thích, riêng tôi thì thấy như vậy.

Người Âu gọi con Rồng là Draco (tiếng La Mã cổ), Drak (tiếng Đức) và Dragon (tiếng Anh và tiếng Pháp). Tại nước ta trong tỉnh Hà Tĩnh ở một dòng sông tên là Rác. Nhưng Rác hay Nak ở người Mường, hoặc trong một vài vùng người Việt ở Thanh Hóa, Nước ở người Việt, Drak, Dlak, Lak, Lat, ở Cao nguyên miền Thượng (Tây Nguyên) cũng chỉ có một nghĩa chung là Sông và Nước. Lạc trong Lạc Việt cũng có nghĩa là nước. Ruộng lạc (Lạc Điền) là cư dân sinh sống các nhóm người cùng cấy cày ruộng nước. Từ các từ chỉ nước như Dlak, Drac, Nak... đã hình thành ra các cử chỉ khái niệm Rồng trong ngôn ngữ Khmer (Nagarie biến thành từ Ngược (Rồng) trong ngôn ngữ Lào. Phải chăng người German từ Uran đã tiếp nhận từ Drak như là một từ ngoại lai, có nghĩa là thần sông, thần nước từ một vùng Đông Nam Á hay rộng hơn là vùng Đông Á chuyển từ lên. Cũng có thể từ vùng Đông Nam Á khái niệm con Drak (con Rồng) đã tiến sang tiểu lục địa Ân Độ bán đảo và cao nguyên Décan- để qua Ba Tư hoặc qua vùng Trung Á mà tràn vào miền Uran. Từ đây người German đem theo khái niệm rồng (Dark) vào châu Âu.

Từ tháng 7/1987, giữa năm Rồng, tôi phát hiện ra được Rồng là vị thần sông hoặc Rồng là biểu tượng của vị thần sông. Cũng như Long Rồng chỉ là hai dạng của một từ chỉ khái niệm con sông, Klong và Krông. Tạp chí Nghiên cứu Văn hóa Nghệ thuật (nay là Tạp chí Văn hóa) số 5 năm 1989 đã đăng bài Đi tìm nguồn gốc con Rồng của tôi. Tiếp sau đó tôi còn dự định tiến hơn nữa với việc quan niệm rằng: Trong người Việt cổ (hay người Bách Việt cổ đại) đã tồn tại tôn giáo thờ Rồng. Nhưng không lâu sau tôi đã hiểu ra rằng: quan niệm như vậy ở tổ tiên người Việt hiện nay, là một điều khó có thể chấp nhận được.

Nhân dịp năm mới 2000, năm cuối cùng của Thế kỷ XX và Thiên niên kỷ thứ hai của nhân loại (hiện nay không ít người còn lầm tưởng là năm 2000 bắt đầu thế kỷ XXI), năm con Rồng, năm Canh Thìn, tôi bèn lôi những phát hiện cũ ra, nhưng viết tóm tắt, để phục vụ đông đảo bạn đọc ưa tìm hiểu.

Tuy nhiên vẫn cần phải nói thêm với độc giả yêu quý rằng việc phát hiện ra từ Long trong kho từ vựng Hán- Việt (tiếng Trung Hoa hiện đại phát âm Long Lủng) vẫn được coi là từ Việt hoặc từ thuần Việt, chỉ là hai dạng thức khác nhau, bị biến đổi qua thời gian lâu dài, của hai dạng trong cùng một từ chỉ khái niệm dòng sông (Klong, Krong) được in trên tạp chí Nghiên cứu Văn hóa Nghệ thuật (5/1989) mới chỉ là mở đầu cho phát hiện và tìm tòi trong việc xác định một số từ trong kho tàng từ vựng Hán - Việt phải được đánh giá lại là có nguồn gốc Việt cổ.

Nhưng từ khái niệm Rồng để ám chỉ vị thần sông- mở rộng ra là thần biển (Long Quân, Long Vương) hay thần nước- Rồng đã được nâng cấp để chỉ thủ lĩnh của các nhóm cư dân, các tộc người sinh tụ tại vùng sông nước, vùng biển và duyên hải ở Đông Nam Á cổ đại. Sau nữa Rồng được nâng cấp để chỉ thủ lĩnh của các nhóm cư dân, các tộc người sinh tụ tại vùng sông nước, vùng biển và duyên hải ở Đông Nam Á cổ đại. Sau nữa Rồng được nâng cấp thành biểu tượng của các vị vua, các Hoàng đế của Trung Hoa khi lãnh thổ của các quốc gia Bách Việt trong thời cổ đại đã bị nhà Tần, nhà Hán thôn tính, sáp nhập hẳn để thành đất đai của người Hán. Nhiều cái dính dáng đến vua và Hoàng đế đều được gắn với Rồng- Long như Long xa, Long bào, Long nhan, bệ Rồng... Khi Vô-Đế, ông vua anh hùng của Hán Triều, nghe lời của danh nho Đổng Trọng- Thư, coi hoàng đế đi đâu thì có Rồng hiện ở đấy thì các nhà nho đương thời đã cực kỳ phản đối cách nói như vậy, họ cho rằng nói như thế là tai dị, không thể chấp nhận được. Nhưng với thời gian người Trung Hoa đã trở nên quen thuộc với cách nghĩ Rồng là biểu tượng của Hoàng đế, cũng như người Việt chúng ta vậy!

Người Trung Hoa còn sáng tạo ra hình tượng Long Mã (Ngựa Rồng), nghĩa là quái vật thần thoại đầu Rồng, mình Ngựa. Đây là quái vật có cánh bay. Hiện nay ở nhiều nơi trên đất nước ta cũng có tượng Long Mã. Long Mã là sản phẩm của sự kết hợp, hỗn hợp và giao thoa văn hóa giữa Trung Nguyên- Hoàng Hà và vùng phương Nam .

Năm 1010 Lý Thái Tổ thiên đô từ Hoa Lư hẻo lánh ra Đại La thành. Khi cập bến Đại La nhà vua và quần thần thấy Rồng vàng hiện ở sông. Nhà vua cho đấy là điềm lành và từ đấy đổi tên Đại La thành Thăng Long, kinh đô Rồng bay, có người cho rằng Rồng ở đây thực ra, có lẽ là cá sấu mà thôi. Rồng là biểu tượng cho cái gì tốt đẹp, cho sự thăng hoa, sự cất cánh bay, sự phát đạt thịnh vượng và phát triển chính vì vậy mà các nước công nghiệp mới (NICS) ở châu Á được gọi là các con Rồng hay các xứ sở Rồng bay.

5/12/1999
Đ.V.B
(134/04-00)





 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • VĂN CÔNG HÙNGKính thưa quý vị, tôi phải xin phép nói ngay là những phát biểu của tôi vô cùng cảm tính và chả có một hệ thống gì hết, trong khi trước mặt tôi đây đều là những người lừng danh về cảm nhận, nhận xét, đúc kết, rất giỏi tìm ra những vấn đề, những quy luật của thơ.

  • TRẦN HOÀI ANH1. Có thể nói yêu cầu đổi mới của các thể loại văn học là một yêu cầu tất yếu trong đời sống văn học. Tính tất yếu nầy luôn đặt cho văn học một hành trình cách mạng. Cách mạng trong đời sống văn học và cách mạng trong bản thân từng thể loại văn học.

  • THÁI PHAN VÀNG ANHTừ sau 1986, sự đổi mới tư duy nghệ thuật, sự mở rộng phạm trù thẩm mĩ trong văn học khiến truyện ngắn không những đa dạng về đề tài, phong phú về nội dung mà còn có nhiều thể nghiệm, cách tân về thi pháp. Mỗi nhà văn đều lí giải cuộc sống từ một góc nhìn riêng, với những cách xử lí ngôn ngữ riêng. Hệ quả tất yếu là truyện ngắn Việt đương đại đã gặt hái được nhiều thành công trên nhiều phương diện, trong đó không thể không kể đến ngôn ngữ trần thuật.

  • TRẦN HOÀI ANH              1. Phân tâm học là lý thuyết có nguồn gốc từ y học, do S.Freud (1856-1939) một bác sĩ người Áo gốc Do Thái sáng lập. Đây là học thuyết không chỉ được áp dụng trong lĩnh vực y học mà còn được vận dụng trong nhiều lĩnh vực khác của đời sống xã hội trong đó có lĩnh vực nghệ thuật.

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔN   Từ lâu, Bản thể con người đã trở thành vấn đề cơ bản và sâu sắc nhất của mối quan hệ giữa văn học với hiện thực. Trong mối quan hệ đó, hiện thực với tư cách là đối tượng khám phá và trình diễn của văn học không còn và không phải chỉ là hiện thực cuộc sống như là dành cho các khoa học nhân văn và các nghệ thuật khác nữa.

  • LÝ VIỆT DŨNGThiền tông, nhờ lịch sử lâu dài, với những Thiền ngữ tinh diệu kỳ đặc cùng truyền thuyết sinh động, lại chịu ảnh hưởng sâu sắc văn hóa Á đông xưa và thấm nhuần văn hóa Tây phương ngày nay nên đã cấu thành một thế giới Thiền thâm thúy, to rộng.

  • TRẦN HUYỀN SÂM1. Theo tôi, cho đến nay, chúng ta chưa có những đánh giá xác đáng về hiện tượng Xuân Thu nhã tập: Cả trên phương diện lý thuyết lẫn thực tiễn sáng tác. Có phải là nguyên do, nhóm này đã bị khoanh vào hai chữ “BÍ HIỂM”?

  • PHI HÙNGĐỗ Lai Thuý đã từng nói ở đâu đó rằng, anh đến với phê bình (bài in đầu tiên 1986) như một con trâu chậm (hẳn sinh năm Kỷ Sửu?).Vậy mà đến nay (2002), anh đã có 4 đầu sách: Con mắt thơ (Phê bình phong cách thơ mới, 1992, 1994, 1998, 2000 - đổi tên Mắt thơ), Hồ Xuân Hương - hoài niệm phồn thực (Nghiên cứu thơ Hồ Xuân Hương từ tín ngưỡng phồn thực, 1999), Từ cái nhìn văn hoá (Tập tiểu luận, 2000), Chân trời có người bay (Chân dung các nhà nghiên cứu, 2002), ngoài ra còn một số sách biên soạn, giới thiệu, biên dịch...

  • TRẦN ĐỨC ANH SƠNCuối tuần rảnh rỗi, tôi rủ mấy người bạn về nhà làm một độ nhậu cuối tuần. Rượu vào lời ra, mọi người say sưa bàn đủ mọi chuyện trên đời, đặc biệt là những vấn đề thời sự nóng bỏng như: sự sa sút của giáo dục; nạn “học giả bằng thật”; nạn tham nhũng...

  • HỒ VIẾT TƯSau buổi bình thơ của liên lớp cuối cấp III Trường Bổ túc công nông Bình Trị Thiên, dưới sự hướng dẫn của thầy Trần Văn Châu dạy văn, hồi đó (1980) thầy mượn được máy thu băng, có giọng ngâm của các nghệ sĩ là oai và khí thế lắm. Khi bình bài Giải đi sớm.

  • PHAN TRỌNG THƯỞNGLTS: Trong hai ngày 02 và 03 tháng 3 năm 2006, tại thủ đô Hà Nội đã diễn ra Hội nghị lý luận – phê bình văn học nghệ thuật toàn quốc. Trên 150 nhà nghiên cứu, lý luận, phê bình đã tham dự và trình bày các tham luận có giá trị; đề xuất nhiều vấn đề quan trọng, thiết thực của đời sống lý luận, phê bình văn học nghệ thuật hiện đại ở nước ta, trong đối sánh với những thành tựu của lý luận – phê bình văn học nghệ thuật thế giới.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO1. Con người không có thơ thì chỉ là một cái máy bằng xương thịt. Thế giới không có thơ thì chỉ là một cái nhà hoang. Octavio Paz cho rằng: “Nếu thiếu thơ thì đến cả nói năng cũng trở nên ú ớ”.

  • PHẠM PHÚ PHONGTri thức được coi thực sự là tri thức khi đó là kết quả của sự suy nghĩ tìm tòi, chứ không phải là trí nhớ.                       L.Tonstoi

  • TRẦN THANH HÀTrong giới học thuật, Trương Đăng Dung được biết đến như một người làm lý luận thuần tuý. Bằng lao động âm thầm, cần mẫn Trương Đăng Dung đã đóng góp cho nền lý luận văn học hiện đại Việt đổi mới và bắt kịp nền lý luận văn học trên thế giới.

  • PHẠM XUÂN PHỤNG Chu Dịch có 64 quẻ, mỗi quẻ có 6 hào. Riêng hai quẻ Bát Thuần Càn và Bát Thuần Khôn, mỗi quẻ có thêm một hào.

  • NGÔ ĐỨC TIẾNPhan Đăng Dư, thân phụ nhà cách mạng Phan Đăng Lưu là người họ Mạc, gốc Hải Dương. Đời Mạc Mậu Giang, con vua Mạc Phúc Nguyên lánh nạn vào Tràng Thành (nay là Hoa Thành, Yên Thành, Nghệ An) sinh cơ lập nghiệp ở đó, Phan Đăng Dư là hậu duệ đời thứ 14.

  • HỒ THẾ HÀLTS: Văn học Việt về đề tài chiến tranh là chủ đề của cuộc Toạ đàm văn học do Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế tổ chức ngày 20 tháng 12 năm 2005. Tuy tự giới hạn ở tính chất và phạm vi hẹp, nhưng Toạ đàm đã thu hút đông đảo giới văn nghệ sĩ, nhà giáo, trí thức ở Huế tham gia, đặc biệt là những nhà văn từng mặc áo lính ở chiến trường. Gần 20 tham luận gửi đến và hơn 10 ý kiến thảo luận, phát biểu trực tiếp ở Toạ đàm đã làm cho không khí học thuật và những vấn đề thực tiễn của sáng tạo văn học về đề tài chiến tranh trở nên cấp thiết và có ý nghĩa. Sông Hương trân trọng giới thiệu bài Tổng lược và 02 bài Tham luận đã trình bày ở cuộc Toạ đàm.

  • TRẦN HUYỀN SÂM1. Tại diễn đàn Nobel năm 2005, Harold Pinter đã dành gần trọn bài viết của mình cho vấn đề chiến tranh. Ông cho rằng, nghĩa vụ hàng đầu của một nghệ sĩ chân chính là góp phần làm rõ sự thật về chiến tranh: “Cái nghĩa vụ công dân cốt yếu nhất mà tất cả chúng ta đều phải thi hành là... quyết tâm dũng mãnh để xác định cho được sự thật thực tại...

  • NGUYỄN HỒNG DŨNG"HỘI CHỨNG VIỆT NAM"Trong lịch sử chiến tranh Mỹ, thì chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến tranh mà người Mỹ bị sa lầy lâu nhất (1954-1975), và đã để lại những hậu quả nặng nề cho nước Mỹ. Hậu quả đó không chỉ là sự thất bại trong cuộc chiến, mà còn ở những di chứng kéo dài làm ảnh hưởng trầm trọng đến đời sống Mỹ, mà người Mỹ gọi đó là "Hội chứng Việt Nam".