Còn nhiều điều phải bàn

09:28 26/11/2009
THỦY THANHLâu nay, "quả lắc" vì sự trong sáng tiếng Việt dường như đã trì vào điểm chết của dây dọi. Những mặc cảm, thành kiến hoặc dị ứng về sự "ga lăng ngôn ngữ" trước áp lực của thời đại tin học cũng chững lại như một thái độ thăm dò. Suy cho cùng thì ngôn ngữ cũng có đời sống riêng và nó bao gồm cả thể vía lẫn thể xác. Nó cũng "hữu sinh tất hữu diệt" trong luật tiến hóa và đào thải như nhiên. Ngôn ngữ nói chung là một phương pháp hệ thống hóa và tích lũy tri thức theo sự diễn tiến về mặt lịch đại và sự tiệm tiến về mặt đồng đại.

Bất kì dân tộc nào cũng có ngôn ngữ riêng của mình và chính ngôn ngữ là đặc trưng văn hóa bản chất nhất của mỗi dân tộc. Người Việt qua hàng ngàn năm Bắc thuộc vẫn không bị đồng hóa là nhờ sức sống bền bỉ và bất tử của tiếng Mẹ Đẻ. Việc giữ gìn sự trong sáng tiếng mẹ đẻ là hành vi cao quí và thiêng liêng. Trong quá trình đi lên, ngôn ngữ cũng luôn được sáng tạo, bổ sung để ngày một phong phú và hoàn thiện hơn. Tuy nhiên, dù dân gian hay bác học, dù cao sang hay thấp hèn thì ngôn ngữ cũng chỉ là công cụ để giao tiếp và phương tiện để tư duy mà thôi. Đã là công cụ hoặc phương tiện thì bao giờ tính thực tiễn và tính thực dụng của nó cũng là mục đích.

Chiếc áo tơi trước kia và áo ni lông sau này cũng đều là phương tiện che mưa nhưng cái mới đã thay thế dần cái cũ vì sự tiện lợi, hợp thời của nó. Dù vậy thì áo tơi cũng chưa mất bẳn, ít nhất là về mặt danh từ, nó vẫn tồn tại như một sự "đối trọng" với áo ni lông. Ngược lại, danh từ áo ni lông thì đã chết yểu và người ta thay vào đó bằng từ áo mưa. Cũng như áo tơi, áo ni lông đưọc gọi tên từ đặc tính của chất liệu còn tên áo mưa lại căn cứ vào công dụng của nó. Hiện tượng "lệch pha" hoặc thiếu đồng nhất khi định danh sự vật lại chính là sự nhất quán trong cấu trúc ngữ âm của tiếng Việt. Tiếng Việt vốn đơn âm nên nó không chấp nhận những từ ghép nhiều chữ. Đơn vị chữ và đơn vị từ ở đây thưởng chỉ là một. Dù áo tơi hay áo mưa thì chúng vẫn "đậm đà bản sắc dân tộc" hơn từ áo ni lông. Đến một lúc nào đó, từ áo ni lông sẽ bị "sa thải" vì dáng dấp "lai căng" của nó. Còn từ áo tơi tuy thuần nhất nhưng khi cái tơi sự vật đã chết thì nó cũng chẳng có lí do gì nữa để sống. Quá trình tương tác và thanh lọc cái hợp lí là từ áo mưa sẽ tồn tại. Từ mới, thuật ngữ mới xuất hiện dễ làm thỏa mãn tính hiếu kì ở đâu đó nhưng nó cũng dễ gây sự kì thị nhất định đối với thói quen.

Bởi vậy, trầy trật lắm mới gieo được những từ mới vào cánh rừng từ vựng. Sự mở rộng vốn từ là một nhu cầu mang tính qui luật, nghĩa là nó khách quan. Sự can thiệp của lí trí hoặc ý chí vì những mặc cảm này nọ đều có thể phương hại đến "tinh thần trong sáng" của ngôn ngữ. Chỉ cần cực đoan theo chiều "cục bộ" một chút thì tiếng Việt sẽ nghèo đi nhiều lắm. Cuốn Từ điển tiếng Việt chính thống của ta do Nhà xuất bản Khoa học xã hội công bố vài thấp kỉ lại đây chỉ có khoảng 35.000 từ thì làm sao nó bình đẳng được trong mối tương quan Từ điển Anh - Việt lên đến hàng trăm nghìn từ? Đã có thời người ta muốn "xóa sổ" những từ gốc Hán khỏi kho tàng tiếng Việt và đã gặp không ít trường hợp nan giải.

Ví dụ từ hồng thập tự đổi thành chữ thập đỏ thì nghe được nhưng cụm từ thương binh liệt sĩ chẳng lẽ lại "việt hóa" ra lính què lính chết?! Việc nới rộng hợp lí vùng ngôn ngữ giao thoa sẽ góp phần làm giàu tiếng mẹ đẻ. Nhiều khi trong những văn cảnh cần thiết, người ta vẫn phải xen kẽ ngoại ngữ hoặc từ gốc Hán để làm tăng thêm vẻ trang trọng của nó. Chẳng hạn khi đón tiếp một nguyên thủ quốc gia nào đó có vợ đi theo thì nhất thiết phải giới thiệu phu nhân tổng thống chứ không thể thay bằng mụ vợ tổng thống được. Truyện Kiều là một áng thơ kiệt tác nhờ kết tinh nhiều yếu tố "cộng sinh" nhưng có lẽ sự tài tình của thi hào Nguyễn Du trong việc kết hợp nhuần nhuyễn vốn từ ngữ Hán-Việt là yếu tố trực diện, mở đường. Khi miêu tả thiếu nữ phòng khuê đài các thì "Đầu lòng hai ả tố nga" và khi than van cho thân phận ê chề của người phụ nữ thì "Đau đớn thay phận đàn bà". Các từ tố nga (Hán) và đàn bà (Việt) đều đắc địa không thể thay thế hoặc đổi chỗ cho nhau được. Bà Huyện Thanh Quan cũng là một thi sĩ rất "Hán Việt" và thơ bà càng nghiêng vào từ gốc Hán càng lộ vẻ quí phái:

            Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
            Nền cũ lâu đài bóng tịch dương

Ngược lại, nữ sĩ Hồ Xuân Hương thì quá dụng công trong việc dùng tiếng Việt bình dân thông qua chữ nôm để rồi trở thành Bà Chúa thơ Nôm của dân tộc:

            Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi
            Này của Xuân Hương đã quệt rồi
            Có phải duyên nhau thì thắm lại
            Đừng xanh như lá bạc như vôi.

Qua đó ta thấy tiêu chí vì sự trong sáng của tiếng Việt còn nhiều điều phải bàn. Các quan niệm về vấn đề này, về thế nào là trong sáng cần phải đi đến một thông ước chung, nhất là khi hệ thống ngữ pháp tiếng Việt chưa chuẩn, cơ chế thị trường lại gây nhiễu bằng áp lực ngôn ngữ thương mại, ngôn ngữ quảng cáo như hiện nay.

T.T
(125/07-99)





 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN DƯƠNG CÔN   (Tiếp Sông Hương số 11-2008)Bản thể con người chỉ cấu trúc bằng cảm giác và những gì là biến tướng khả dĩ của cảm giác mà không từ bỏ cấu trúc thiên định bao gồm kết cấu thực và kết cấu ảo của cảm giác. Nếu hình dung kết cấu thực là trạng thái mô phỏng thế giới, nghĩa là cái quan hệ hấp dẫn giữa xung động thần kinh não bộ con người với xung động tiếp nhận thế giới, thì chúng ta hình dung được kết cấu ảo chỉ là sản phẩm thuần tuý do xung động nội tại của thần kinh não bộ con người.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNGPhân tâm học ra đời trong ánh bình minh của thế kỷ hai mươi. Ảnh hưởng của nó đối với sáng tạo và phê bình văn học khởi đi từ cuốn “Diễn dịch các giấc mơ” của Freud và được nối dài sau đó bởi nhiều công trình của các tác giả khác nhau.

  • CAO HUY THUẦNToàn cầu hóa đang là một xu thế, một hiện tượng rộng lớn bao trùm khắp thế giới, không chỉ về kinh tế mà cả trong lĩnh vực văn hóa và đời sống. Toàn cầu hóa và chống toàn cầu hóa đã trở thành vấn đề thời sự của thế giới. Trong bối cảnh đó, yêu cầu gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là một đòi hỏi cấp thiết, có tính sống còn của mỗi dân tộc khi phải đối mặt với xu thế toàn cầu hóa, đặc biệt là trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa.Sông Hương xin giới thiệu một phần bài viết của Cao Huy Thuần như một góc nhìn thú vị về những vấn đề gai góc của thời đại.

  • NGUYỄN VĂN DÂN(*)LTS: Hội nghị Lý luận phê bình văn học lần thứ 2 của Hội Nhà văn Việt Nam diễn ra 2 ngày 4 và 5 tháng 10 năm 2006 đã khép lại nhưng âm vang của nó vẫn còn “đồng hiện” theo 2 cực... buồn vui, cao thấp. Song, dù sao nó cũng đã phản ánh đúng thực trạng, đúng “nội tình” của đời sống văn học nước nhà.

  • PHẠM PHÚ PHONGMấy chục năm qua, người đọc biết ông qua những kịch bản thơ, những bài thơ viết về tình bạn, tình yêu; về những cuộc chia tay lên đường ra trận; về đất và người Hà Nội đầy khí thế hoành tráng của tâm thế sử thi; nhưng cũng có khi bí hiểm, mang tâm trạng thế sự buồn cháy lòng của một người sống âm thầm, đơn độc, ít được người khác hiểu mình.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN(Đọc Tư- duy tự- do của Phan Huy Đường*)

  • TRẦN HOÀI ANHBáo Văn nghệ trong lời giới thiệu những bài thơ mới nhất của Nguyễn Khoa Điềm số ngày 5/8/2006 cho biết: “Bây giờ ông đã trở về ngôi nhà của cha mẹ ông ở Huế. Tôi chưa bao giờ đến ngôi nhà ấy”. Còn tôi, người viết bài này đã có “cơ may” ở trọ tại ngôi nhà yên bình ấy trong những năm tám mươi của thế kỉ trước khi tôi đang là sinh viên ngữ văn Đại học Sư phạm Huế.

  • NGUYỄN NGỌC THIỆN(Kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Lan Khai (1906-2006)Đầu năm 1939, Vũ Đình Long, chủ Nhà xuất bản Tân Dân có sáng kiến xin giấy phép xuất bản ấn hành tạp chí TAO ĐÀN. Đây là tạp chí chuyên ngành về văn học đầu tiên trong làng báo ở ta trước Cách mạng tháng 8 năm 1945.

  • NGUYỄN TÀI CẨN, PHAN ANH DŨNG1/ Tiến sĩ Đào Thái Tôn vừa cho xuất bản cuốn “Nghiên cứu văn bản Truyện Kiều: bản Liễu Văn Đường 1871”. Chúng tôi thành thực hoan nghênh: hoan nghênh không phải vì trong cuốn sách đó có những chỗ chúng tôi được Tiến sĩ tỏ lời tán đồng, mà ngược lại, chính là vì có rất nhiều chỗ Tiến sĩ tranh luận, bác bỏ ý kiến của chúng tôi.

  • TÔN PHƯƠNG LAN1. Phong Lê là người ham làm việc, làm việc rất cần cù. Anh là người suốt ngày dường như chỉ biết có làm việc, lấy công việc làm niềm vui cho bản thân và gia đình. Anh sống ngăn nắp, nghiêm túc trong công việc nhưng là người ăn uống giản đơn, sinh hoạt tùng tiệm.

  • THỤY KHUÊLGT: “Thụy Khuê là một nhà phê bình văn học Việt Nam sắc sảo ở Pháp” (Trần Đình Sử, Văn học Việt Nam thế kỷ XX, NXBGD Hà Nội, 2005) Bà đã viết về mục tác giả Bùi Giáng và một số tác giả miền Nam trước 1975 cho “Tự điển văn học” bộ mới. Bài viết về Thanh Tâm Tuyền cũng dành cho bộ Từ điển nói trên. Chúng tôi đăng bài viết này để tưởng nhớ nhà thơ Thanh Tâm Tuyền vừa mới qua đời.

  • HỒ THẾ HÀĐồng cảm và sáng tạo (*): Tập phê bình-tiểu luận văn học mới nhất của nhà phê bình nữ Lý Hoài Thu. Tập sách gồm 30 bài viết (chủ yếu là phê bình-tiểu luận và 5 bài trao đổi, phỏng vấn, trả lời phỏng vấn), tập trung vào mảng văn học hiện đại Việt Nam với sự bao quát rộng về đề tài, thể loại và những vấn đề liên quan đến phê bình, lý luận văn học, đời sống văn học từ 1991 đến nay.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHHôm Tết vừa rồi, anh Đỗ Lai Thúy ghé thăm Huyền Không Sơn Thượng và có tặng tôi một tập sách. Nội dung, anh đã phác thảo chân dung học thuật của 17 nhà nghiên cứu. Công trình thật là công phu, khoa học, nhiều thao tác tư duy, nhiều tầng bậc chiêm nghiệm... hàm tàng một sở học nghiêm túc, đa diện và phong phú.

  • TRÚC THÔNGLTS: Cuộc hội thảo Thơ Huế trong mạch nguồn thơ Việt do Hội Nhà văn TT Huế tổ chức nhân dịp Festival Thơ Huế 2006 đã “truy cập” được nhiều nhà thơ, nhà lý luận- phê bình tham dự.Tiếp theo số tháng 6, trong số tháng 7 này, Sông Hương xin trích đăng thêm một số tham luận và ý kiến về cuộc hội thảo nói trên.

  • PHẠM XUÂN NGUYÊNTrước hết tôi muốn phân định một khái niệm thơ Huế, ít nhất là trong bài viết này của tôi. Thơ Huế là một khái niệm tưởng cụ thể nhưng lại khá mơ hồ. Thế nào là thơ Huế? Có phải đó là thơ viết về Huế và thơ của người Huế viết. Mặc nhiên mọi người đều hiểu thế. Thơ viết về Huế thì có của người gốc Huế, người đang sống ở Huế và người ở khắp mọi nơi.

  • INRASARATham luận Festival Thơ Huế lần 2 tại Huế 05 và 06/6/2006Tràn lan cái giống thơ:Cái giống thơ là sản phẩm dễ gây nhầm lẫn và ngộ nhận. Ngộ nhận nên quá nhiều người làm thơ, nhà nhà làm thơ. Rồi tập thơ được in ra hàng loạt để...tặng. Và khốn thay, không ai đọc cả! Vụ lạm phát thơ được báo động mươi năm qua là có thật. Không thể, và cũng không nên chê trách hiện tượng này. Thử tìm nguyên do.

  • TÂM VĂNĐã hơn hai thế kỷ rồi mà nay đọc bài “Lập học chiếu” (Chiếu chỉ thành lập trường học) của Ngô Thời Nhậm vẫn nóng lên như những dòng thời sự.

  • HỒ THẾ HÀVới điểm nhìn ngược chiều từ khởi đầu thế kỷ XXI (2006) hướng về cội nguồn khai sinh vùng đất Thuận Hoá - Phú Xuân - Huế (1306), chúng ta thấy vùng đất này đã có 700 lịch sử thăng trầm, vinh quang và bi tráng.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNGVô thức là những hoạt động tinh thần mà chúng ta không thể nhận thức ra được. Trong tác phẩm nổi tiếng của mình, Diễn dịch các giấc mơ, Freud lần đầu tiên đề nghị khái niệm vô thức (unconscious) để phân biệt với ý thức (conscious) và tiềm thức (preconscious), sau này gọi là lý thuyết topo.