Còn lại một nỗi buồn

14:39 05/09/2008
HOÀNG BÌNH THI (Đọc thơ HÀ MINH ĐỨC)Trong cơn mưa đầu mùa tầm tã của xứ Huế, tôi đọc lại những bài thơ của giáo sư Hà Minh Đức với một nỗi buồn riêng. Một chút ngạc nhiên mà chẳng ngạc nhiên chút nào, khi song hành với sự uyên bác trong học thuật là một tâm hồn nhạy cảm và tinh tế vô cùng.

Tuổi thơ, làng quê, mẹ, tình yêu và những suy ngẫm về đời người là những yếu tố làm nên thế giới thơ của Hà Minh Đức. Nếu bảo rằng thơ của Hà Minh Đức có một giọng điệu riêng thì đó chính là lời nói thầm - buồn xao xác của một trái tim ưu tư vẫn thường cho đời Những giọt nghĩ trong đêm(1)
Có lẽ trước khi là cái đẹp xuất thế, với giáo sư Hà Minh Đức, thơ là sự chiêm nghiệm cuộc đời. Chừng ấy năm tháng buồn vui làm người, chừng ấy những danh vọng, vinh quang và cay đắng lặng thầm... để rồi một ngày ông chợt nhận ra rằng:
Chỉ còn lại nỗi cô đơn
Và một bầu trời đêm nhiều sao mọc
(Viết cho con)
Thời gian và năm tháng đã đi qua đời người. Với Hà Minh Đức, thời gian là một nỗi ám ảnh nhiều phiền muộn. Nó là cái ngày hôm qua nhàu nát, tàn phai và rực rỡ ánh sáng. Trôi qua... trôi qua... và đã trôi qua trong tiếc nuối:
Nỗi buồn năm cũ trôi qua
Nuối tiếc chùm hoa nở muộn
(Thời gian)
Và rồi thảng thốt bật ra những câu thơ nghẹn ngào, đắng chát:
Bây giờ anh lại ở đây
Trên tay cầm một nhành lá
Đã nhạt màu.
Chẳng còn gì thiêng liêng
Để nói lời hò hẹn
Chẳng còn gì nguyên vẹn;
Khi mùa thu sắp tàn...
(Người tình lang thang)
Dường như trong từng ngày, từng đêm, từng khoảnh khắc, trái tim thổn thức, ứa máu kia đã cố níu lại từng chiếc lá rụng, từng dấu chân đang đi về phía xa mờ... Đôi bàn tay run rẩy cố nhen lên trong vô thường một ngọn lửa nhỏ nhoi, nhưng chỉ thấy có đêm thâu dằng dặc một thứ nước mắt chảy tràn qua cõi nhân thế:
Tôi thắp những ngọn đèn
Lửa cháy sáng thâu đêm
Tôi thắp mười ngọn nến
Nước mắt nến chảy ròng
Nước mắt nến hay nước mắt người? Hay cả nến và người đã cùng khóc trong cái đêm biệt ly mà "Nỗi buồn không thể nguôi quên". Buồn. Cô đơn. Trong suy ngẫm đời người. Nhất là trong tình yêu. Chới với và hụt hẫng. Đôi lúc là tiếng nấc nghẹn thầm. Thơ Hà Minh Đức cũng buồn và cô đơn như vậy khi nói đến tình yêu. Trong khoảnh khắc chia tay ấy, thời gian như đã ngừng lại. Mùa thu úa tắt những ánh ngày:
Em chia tay tôi vào buổi tàn thu
Nơi cuối mùa những tia nắng ngày đã tắt
(Đi hết một mùa thu)
Có lúc tình yêu đã mang lại một chút niềm vui. Nhưng mãi mãi đó chỉ là một niềm vui ngắn ngủi, thoảng qua như một giấc mơ và mộng mị vẫn nhiều hơn đời thực:
Lần đầu ngắm những ngón tay
Sao yếu mềm...
            và em run rẩy.
(Tình yêu chưa một lần hò hẹn)
Dù khổ đau và thiếu vắng nhưng với Hà Minh Đức, trước sau tình yêu vẫn là một hạnh phúc có thực, dẫu nó thật hiếm hoi. Hà Minh Đức nhìn thấy (nhất là trong bóng tối) đằng sau nỗi buồn riêng là một niềm vui lay lắt:
Đêm đen
Như mái tóc em
Anh vẫn phủ dày lên mặt
(Đợi chờ)
Và nữa:
Tôi trộm nhìn em
Em lại nhìn chốn xa xôi
Bong bóng phập phồng
Và lanh chanh những giọt mưa rơi
(Cơn mưa đầu mùa)
Một chút ca dao trong phập phồng bong bóng, mối tình trắng trong kia đã thơ mộng hơn, nó giản dị và gần gũi như một mối tình quê.
Đi hết một mùa thu tơi tả những lá vàng, để Ở giữa mùa đông cơ hồ lạnh lẽo, rồi chắt ra Những giọt nghĩ trong đêm... thơ Hà Minh Đức thật sâu và buồn. Nó tựa hồ một tiếng thở dài bị dồn nén và bật ra một cách vô ngôn như sự trỗi dậy của tâm thức. Đặc biệt là âm hưởng của Đường thi và thơ Haiku đã làm cho thơ Hà Minh Đức trở nên sâu thẳm. Thơ của ông là lời nói bình thường từ cuộc sống, không một chút dụng thi. Nó là tiếng hót lảnh lót, đau đớn của con chim trong bụi mận gai, một đời cô độc với tình yêu:
Đêm sâu có bao nhiêu điều ghi nhớ
Nỗi buồn không thể nguôi quên
Nhưng em ơi một ngày mới
Không xui ta buồn phiền
(Tia nắng ban mai)
Đêm đã qua. Đã là buổi sáng. Trời se lạnh một chút sương mù. Tôi gấp lại những trang thơ Hà Minh Đức để nghe từ trong đó một khúc nguyện cầu cho con người độc hành suốt đời chỉ thấy hoa lau trắng bạt ngàn...
H.B.T

(nguồn: TCSH số 164 - 10 - 2002)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • BÙI NGUYÊN

    Ngửa (Nxb. Hội Nhà văn, 2017) không đơn thuần chỉ là tập truyện ngắn với nhiều hoàn cảnh thân phận và sự trầm tư riêng biệt của cư dân Sài Gòn đã cùng tác giả đồng hành qua hơn nửa thế kỷ sinh cư trên cái thành phố vốn dĩ là trung tâm sinh hoạt sôi động năng nổ với đầy đủ hương vị sống. Đó là cảm nhận đầu tiên của tôi khi lần lượt mở từng trang của tập truyện ngắn ngồn ngộn hoài niệm của nhà văn Ngô Đình Hải.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO

    1.
    Trước khi có Hàn Mặc Tử, người ta chỉ biết có hai loài đáng trọng vọng là “Thiên thần” và “loài Người”. Nhưng từ khi có Hàn Mặc Tử, người ta mới biết còn có thêm một loài nữa, đó là “loài thi sĩ”.

  • NGUYỄN THỊ TỊNH THY      

    Bông hồng cho Mẹ của bác sĩ - thi sĩ Đỗ Hồng Ngọc là một bài thơ hay về mẹ. Hay đến mức nào? Hay đến mức lặng người, lạnh người. Hay đến mức phải gọi đó là tuyệt tác.

  • LÊ MINH PHONG

    (Nhân đọc Chậm hơn sự dừng lại của Trần Tuấn, Nxb. Hội Nhà văn, 2017)

  • TRẦN NGỌC HỒ TRƯỜNG

    Tư tưởng văn học của Tản Đà (1889 - 1939) không thuần nhất mà là sự hỗn dung của “tư tưởng Nho gia, tư tưởng Lão Trang và tư tưởng tư sản”1.

  • MỘC MIÊN (*)

    Là một trong những cây bút trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Phan Thị Thanh Nhàn không chỉ là người có duyên thầm trong thơ mà còn có duyên kể chuyện đặc biệt là những câu chuyện dành cho lứa tuổi thiếu nhi.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG

    Trong thơ trữ tình, lịch sử không tồn tại. Trường ca làm chúng tồn tại.


  • (Ý kiến của Nguyễn Văn Bổng, Xuân Cang, Nguyễn Kiên, Hà Minh Đức, Hoàng Ngọc Hiến)

  • Sách chuyên khảo “Sự ra đời của đế chế Nguyễn” của A.Riabinin tiến sĩ sử học Xô Viết nghiên cứu lịch sử xã hội - chính trị của Việt Nam vào đầu thế kỷ XIX.

  • LÊ MINH PHONG

    (Nhân đọc: Rừng khô, suối cạn, biển độc… và văn chương của Nguyễn Thị Tịnh Thy, Nxb. Khoa học xã hội, 2017).

  • TRẦN VIẾT ĐIỀN

    Trong sách “Nhìn lại lịch sử”, Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2003, tác giả Phan Duy Kha viết bài “Một bài thơ liên quan đến lăng mộ vua Quang Trung”.

  • BÙI KIM CHI

    “Tháng Tám năm Ất Dậu (1945)… Là công dân Việt Nam nên tôi đã tham gia phong trào chống xâm lăng…”. (Truyện ngắn Mũi Tổ).

  • TRƯƠNG THỊ TƯỜNG THI

    Thuật ngữ triết luận gắn với tính trí tuệ hay tính triết lý trong văn học nói chung và trong thơ ca nói riêng xuất hiện từ rất sớm.

  • NGUYỄN THẾ QUANG

    Nói đến nhà văn Nguyễn Khắc Phê thì không gì bằng đọc cuốn tự tuyện của anh. Số phận không định trước(*) đưa ta đi suốt cuộc hành trình sáng tạo nghệ thuật bền bỉ quyết liệt suốt năm chục năm qua của anh.

  • NGUYỄN HỮU SƠN

    Thiền sư Vạn Hạnh (?-1018) gốc họ Nguyễn, người hương Cổ Pháp (nay thuộc phường Đình Bảng, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh), thuộc thế hệ thứ mười hai dòng Thiền Nam phương Tì Ni Đa Lưu Chi.

  • NGUYÊN QUÂN

    Một cảm nhận thật mơ hồ khi cầm trên tay tập sách, vừa tản văn vừa tiểu luận của nhà văn Triệu Từ Truyền gởi tặng. Sự mơ hồ từ một cái tựa rất mơ hồ bởi lẽ chữ là một thực thể hữu hiện và chiếc cầu tâm linh chính lại là một ảo ảnh rất dị biệt với thực thể hữu hạn của những con chữ.

  • TUỆ AN

    Đọc “Ảo giác mù”, tập truyện ngắn của Tru Sa (Nxb. Hội Nhà văn, 2016)

  • TRẦN VIẾT ĐIỀN

    Ngô Thì Nhậm viết bài thơ Cảm hoài cách đây 223 năm, nhân đi sứ báo tang Tiên hoàng Quang Trung băng hà và cầu phong An Nam quốc vương cho vua Cảnh Thịnh.

  • NGUYỄN THỊ THANH LƯU

    Đã từ rất lâu rồi, tôi hài lòng với việc đọc thơ trong màu xám của một nỗi tuyệt vọng - nỗi tuyệt vọng không bao giờ phân tách nổi trắng đen giữa đám sương mù xám đặc dường như chỉ có dấu hiệu đậm dần lên trong những lớp lang chữ nghĩa, trong cách ngắt nhịp, buông vần.