Con đường Tố Hữu

15:31 24/12/2012

ĐOÀN TRỌNG HUY*

Tố Hữu là nhà cách mạng - nhà thơ.
Cách mạng và thơ ca thống nhất hài hòa trong một con người. Một đời, Tố Hữu đồng thời đi trên Đường Cách MạngĐường Thơ. Với Tố Hữu, Đường Thơ và Đường Cách Mạng đồng hành như nhập làm một trong Đại lộ Đất nước, Nhân dân, Dân tộc vĩ đại trên hành trình lịch sử cách mạng.
Đường đời Tố Hữu cùng là sự hòa nhập hai con đường này.

Bác Hồ làm việc với đồng chí Tố Hữu, tháng 4.1960 - Ảnh: internet

1.

Tố Hữu tự mở đường đến với cách mạng.

Trước hết, tuổi non trẻ, tự mở đường trong cuộc sống: con đường học vấn. Ngay từ thuở thiếu niên, nhà nghèo có lúc phải học chậm lại một năm vì gia cảnh, cậu bé vẫn tiếp tục, không chịu bị đứt đoạn, bỏ dở việc học. Học lên, Tố Hữu tham gia Đoàn Thanh niên Dân chủ xuống đường cùng hàng vạn quần chúng đòi dân sinh, dân chủ thời phong trào Mặt trận Bình dân bị cắt học bổng, đuổi ra khỏi nội trú nhưng vẫn học.

Cũng từ đây, anh học sinh nghèo đi làm gia sư ở khu xóm chợ. Chưa vào đời đã phải tự mở đường để sống và học: con đường kiếm sống. Vô hình trung, một thầy giáo còm tìm ra con đường đến với những thân phận tôi đòi, cơ cực, dưới đáy của xã hội thành thị: những thằng nhỏ, con sen, chị vú em, lão đầy tớ và cả những cô gái “bán hoa” trên sông. Vậy là, từ rất trẻ, anh đã tự mở đường để bước vào con đường đời - con đường đầy gian khó, phức tạp, đầy ngổn ngang éo le, ngang trái và cũng đầy bất trắc, hiểm nguy.

Không đủ tiền mua sách, anh đi đọc nhờ ở mấy hiệu sách của các nhà hảo tâm (thực chất là chiến sĩ Cộng sản mới ra tù: Lê Duẩn, Hải Triều…). Thêm một con đường vào một phần kho tàng tri thức thế giới: sách văn chương, sách chính trị… Cũng là sự bắt gặp những tia sáng văn hóa và cách mạng từ các trí tuệ nổi tiếng: Gorki, Astrovski, Barbusse, Marx, Engels… Dần dần với sự dẫn dắt của các bậc đàn anh cách mạng, tiếp nhận trực tiếp ánh sáng “mặt trời chân lý” anh học sinh giác ngộ lý tưởng đi thẳng vào con đường tranh đấu. Không bao lâu bị bắt, bị giam. Nhà tù đế quốc là trường đấu tranh khốc liệt nhất giữa sống và chết, là thử thách dữ dội nhất giữa anh hùng và hèn hạ, là lựa chọn triệt để nhất giữa bản năng và nhân cách.

Khóc là nhục. Rên, hèn. Van, yếu đuối
Và dại khờ là những lũ người câm

                                  (Liên hiệp lại)

Đời cách mạng từ khi tôi đã hiểu
Dấn thân vô là phải chịu tù đày
Là gươm kề tận cổ, súng kề tai
Là thân sống chỉ coi còn một nửa

                                   (Trăng trối)

Số phận đã đưa người Cộng sản trẻ tuổi vào con đường thử lửa quyết liệt nhất. Đến lúc này, anh thanh niên học sinh đã hóa thân kỳ diệu: từ con người cá nhân thành con người xã hội: “Là con của vạn nhà/ là em của vạn kiếp phôi pha….”; là “bạn thuyền”, của “đoàn ta” (Giờ quyết định), là “con khôn của giống nòi”. (Dậy lên thanh niên). Từ ấy dấn thân lên đường. Đường đời là đường cách mạng kiên cường, dũng cảm. Trên đường cách mạng, nhà thơ Tố Hữu đã từng giữ nhiều chức vụ quan trọng của Đảng và Nhà nước: Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng, Phó chủ tịch thứ Nhất Hội đồng Bộ trưởng.

2.

Tố Hữu ban đầu cũng là người tự mở đường tới/ cho thơ ca. Đó là một nẻo đường dấn bước để nhập vào con đường thơ ca yêu nước, con đường văn học cách mạng. Từ ấy tự khởi đầu đã mang tính luận chiến để tìm ra và xác định con đường thơ ca chân chính. Ba mươi năm chiến đấu vì sự nghiệp độc lập, tự do và thống nhất, Tố Hữu kiên trì sự lựa chọn chính xác như sự lựa chọn của đồng đội dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh: “Nay ở trong thơ nên có thép” (Nhật ký trong tù). Cuộc sống bao giờ cũng cao hơn văn chương: “Dẫu một cây chông trừ giặc Mỹ/ Hơn nghìn trang giấy luận văn chương” (Tiễn đưa). Ấy là chê trách, răn đe loại văn chương đả kích, cơ hội, văn chương chạy theo đuôi cuộc sống. Văn chương, văn hóa chân chính, tiến bộ phải ngời ánh thép như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi”(1).

Từ lâu với tư cách “chiến sĩ trên mặt trận văn hóa, văn nghệ”, hơn thế nữa, đóng vai trò Tổng tư lệnh, Tố Hữu đã được tôn vinh là một trong những người mở đườngngười dẫn đường. Không chỉ cho hôm qua mà còn cho hôm nay và cả ngày mai, với tư cách người trên đường, người đồng hành với chúng ta, đi tới tương lai. Trên đại lộ cách mạng, con đường văn thơ Tố Hữu đã lựa chọn và cổ súy là con đường chân chính nhất: con đường văn học cách mạng con đường nối tiếp truyền thống, mang bản sắc dân tộc và tiên tiến, hiện đại - con đường của con người văn minh trong thời đại.

3.

Tố Hữu cũng tạo ra một con đường trong thơ: con đường hình tượng. Đời thơ Tố Hữu đã tạo được một hình tượng tuyệt đẹp “con đường”. Rất hiện thực mà cực kỳ lãng mạn. Thực đấy mà cũng ảo đấy. Con đường Tố Hữu thực ra đã xuất hiện từ lâu trong thơ. Đó là một không gian nghệ thuật đặc trưng. Ngay từ đầu, con đường của “Hai đứa con phiêu bạt” “Trong bụi đường sương gió”, của những số phận đau khổ, oan trái Tương tri trên đường đời. Là con đường của tù đày, uất hận. “Đường sao run tê tái cả hồn thơ” (Lao Bảo). Nhưng sao như thấy được tấm lòng lưu luyến, day dứt, nhân hậu trong Tiếng hát đi đày ấyNgười đi mấy bóng vẩn vơ trên đường”. Nổi bật nhất vẫn là con đường hy vọng: “Đường xa vô hạn, đích vô cùng/ Chân trời lui mãi lan lan rộng/ Hy vọng tràn lên đồng mênh mông (Dưới trưa).

Thời kháng chiến có bài ca Vui bất tuyệt mới: Đó là Đường vui của toàn dân (Nguyễn Tuân). Niềm vui vỡ òa trong khúc ca Ta đi tới hào hùng. Như tan biến đi cái kỷ niệm “xót xa” thời đầu nổ súng. “Ta lại bước đi trên đường đá rát” (Giữa thành phố trụi - 1947). Giờ đây là một tư thế mới trên con đường chiến đấu, con đường lịch sử, con đường khái quát điệp trùng những chặng đường vinh quang từ xương máu: “Đường Bắc Sơn, Đình Cả, Thái Nguyên/ Đường qua Tây Bắc, đường lên Điện Biên/ Đường Cách Mạng, dài theo kháng chiến”. Con đường tâm hồn xuyên suốt không gian từ Bắc chí Nam vào tận “Thành phố Hồ Chí Minh rực rỡ tên vàng” và mở ra một hướng đi dũng cảm mới: “Ta đi tới, trên đường ta bước tiếp”. con đường dựng xây hòa bình buổi đầu đầy náo nức trong xao động “biết mấy buồn vui”, trong định hướng như mệnh lệnh trái tim “Đường thống nhất chân ta bước tiếp”. Hiện lên oai hùng là Đường vào thời Ra trận. Và chân lý lịch sử thời đại sáng chói từ Đất nước này, Dân tộc này:

Đường của ta đi, đến mọi người (Đường của ta đi).

Cùng nghĩa ấy: “Đường mòn Hồ Chí Minh là con đường sáng tạo” vừa hiện thực lịch sử, vừa tượng trưng. Con đường chiến lược quân sự cũng là con đường chiến tranh nhân dân, con đường chiến thắng. Đó là con đường Việt Nam máu và hoa.

Lịch sử sang trang “Đường Hồ Chí Minh rộng mở thênh thênh”. Lòng người phấn chấn trong tiếng hát Với Đảng, Mùa xuân như lời thơ Tố Hữu. Để lại kiên cường vượt qua biết bao thử thách, gian truân trên quá trình đổi mới, hội nhập với mục tiêu “Đường lên hạnh phúc” xán lạn.

4.

Nhìn chung lại, trên hết, trước hết sau cùng, Tố Hữu đã mở được con đường vào lòng người - bạn đọc các thế hệ. Hàng nghìn, hàng vạn gia đình hôm qua, hôm nay đã, đang có và đọc tác phẩm Tố Hữu. Hàng triệu công dân tương lai sẽ còn gặp Tố Hữu trên ghế học đường: Trên những trang giấy học trò/ Tình yêu của ông hồi sinh (Nguyễn Khoa Điềm). Lớp lớp học sinh, sinh viên đã và đang nhận học bổng mang tên Tố Hữu như một tặng phẩm nghĩa cử, món quà tinh thần động viên, khuyến khích học tập vô giá.

Thật vinh dự, đến nay đã có nhiều ngôi trường mang tên Tố Hữu ở xứ Huế - quê hương của nhà thơ. Cũng thật vinh hạnh là nhiều tỉnh, thành tiêu biểu đã có những con đường lớn mang biển tên Tố Hữu. “Trái tim Hà Nội”, trái tim của Tổ quốc, “Thành phố Hồ Chí Minh rực rỡ tên vàng” là tình yêu lớn của Tố Hữu. Trong tương lai chắc chắn sẽ có con đường với kích thước và tầm vóc lớn mang tên Tố Hữu. Tuy nhiên, xét cho cùng, đó chỉ là một nghi thức cần thiết của xã hội để vinh danh, tưởng niệm, tri ân một nhà cách mạng: nhà thơ lớn, nhà văn hóa lớn của nhân dân. Có một nghi thức linh thiêng vô hình đã được xác lập một cách tự nguyện, có giá trị cao quý mãi mãi - đó là Con đường Tố Hữu trong tâm tưởng, trong hồn cốt và trong lòng người yêu thơ Việt Nam.

Con đường Tố Hữu thành phố, nhà thơ sẽ luôn luôn hiện diện đêm, ngày, năm, tháng, cần mẫn như người chỉ đường có uy tín. Nơi Con đường Tố Hữu lòng người, nhà thơ có mặt thường xuyên, thân thiết và chân thành như người bạn tâm hồn, người tri âm, tri kỷ, người đồng chí. Cũng là người bạn đường tin cậy trên mỗi bước chân đi tới tương lai.

Đ.T.H
(SH286/12-12)


---------------------------------
* PGS.TS. Trường Đại học Sư phạm Hà Nội

(1) Hồ Chí Minh toàn tập - Chính trị Quốc gia, 1995, Tập 10, trang 59.








 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LÊ HUỲNH LÂMDạo này, thỉnh thoảng tôi nhận được tin nhắn “nhìn đời hiu quạnh”, mà theo lời thầy Chạy đó là câu của anh Định Giang ở Vỹ Dạ mỗi khi ngồi nhâm nhi. Khi mắc việc thì thôi, còn rảnh rang thì tôi đến ngồi lai rai vài ly bia với thầy Chạy và nhìn cổ thành hắt hiu, hoặc nhìn cội bồ đề đơn độc, nhìn một góc phố chiều nguội nắng hay nhìn người qua kẻ lại,… tất cả là để ngắm nhìn cõi lòng đang tan tác.

  • THU NGUYỆTLTS: Tập truyện Cánh đồng bất tận của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư được giới chuyên môn đánh giá cao như một hiện tượng văn học trong thời gian gần đây. Giữa lúc đông đảo bạn đọc đang hứng vị với hiện tượng này thì có một hiện tượng khác “ngược chiều” đã gây sốc dư luận.Để bạn đọc Sông Hương có thêm thông tin, chúng tôi xin trích đăng một số ý kiến sau đây.

  • HIỀN LƯƠNGVậy là Nguyễn Ngọc Tư sẽ bị kiểm điểm thật. Cầm tờ biên bản của Ban Tuyên giáo tỉnh Cà Mau trên tay, trong tôi trào dâng nhiều cảm xúc: giận, thương, và sau rốt là buồn...

  • BÙI VIỆT THẮNGTôi có theo dõi “vụ việc Nguyễn Ngọc Tư” đăng tải trên báo Tuổi trẻ (các số 79, 80, và 81 tháng 4 năm 2006) thấy các ý kiến khen chê thật ngược chiều, rôm rả và quyết liệt. Kể ra không có gì lạ trong thời đại thông tin mọi người đều có quyền cập nhật thời sự, nhất là trong lĩnh vực văn chương vốn rất nhạy cảm.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ“Người kinh đô cũ” (NKĐC - NXB Hội Nhà văn, 2004) là tác phẩm thứ 14 của nhà văn Hà Khánh Linh, cũng là tác phẩm văn học dày dặn nhất trong số tác phẩm văn học của các nhà văn ở Thừa Thiên - Huế sáng tác trong khoảng 20 năm gần đây.

  • HỒ THẾ HÀ   Trong cuộc đời mỗi con người, điều sung sướng nhất là được hiểu biết, khám phá và sáng tạo để ý nghĩa tồn sinh không ngừng được khẳng định và nâng lên những tầm cao mới. Theo đó, những thang bậc của nhận thức, nhân văn, của thành quả lao động lại biến thành những giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể lấp lánh lời giải đáp.

  • TÔ VĨNH HÀNếu có thể có một miền thơ để mà nhớ mong, khắc khoải; tôi tin mình đã tìm được rồi, khi đọc Mưa Kim Cương của nhà thơ Đông Hà (Nxb Thuận Hoá, Huế, tháng 11.2005). Sợi dây mảnh mục như các khớp xương đan chằng, xéo buốt, chơi vơi; được giăng giữa hai bờ lở xói của cuộc đời. Trên cao là “hạt” kim cương thô ráp và gan lỳ hơn cả là đá nữa, nhưng lại giống với thân hình thần Vệ Nữ đang rơi, đang rơi, nhọn sắc, dữ dằn... Minh hoạ ở trang bìa xanh và sâu thẳm như những trang thơ.

  • TRẦN THANH HÀLGT: Có thể nói rằng, “Tiểu thuyết và tiểu luận về tiểu thuyết của Milan Kundera được xem như là một trong những hiện tượng độc đáo đáng được chú ý trong văn học Châu Âu hiện đại”. Mỗi cuốn tiểu thuyết cô đọng của nhà văn, mang lại cho độc giả một cái nhìn độc đáo về thế giới hiện đại và vị trí con người trong đó, một thứ triết học riêng về cuộc sống và mối quan hệ liên cá nhân, “các chủ đề sắc sảo và các tính cách con người sinh động được kết hợp với những suy tư về các đề tài triết học và hiện sinh mang tính toàn cầu”.

  • HOÀNG VĂN Đọc Hoang thai ta có thể hình dung ra xã hội Ba Lan đương đại và những vấn đề nẩy sinh trong xã hội này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊGặp nhà văn - dịch giả Đoàn Tử Huyến - một người “chơi” sách có hạng ở đất Hà Thành - tại nhà sách lớn của Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây mới khai trương trên khu Cầu Giấy, trước ngày hội thảo về tiểu thuyết “Mẫu Thượng ngàn” của Nguyễn Xuân Khánh, tôi hỏi: “Có đúng là ông đã nói trên một tờ báo rằng “Một tác phẩm kiệt xuất như “Nghệ nhân và Margarita” (NNVM) mà chưa có một nhà phê bình Việt Nam nào sờ đến cả! “Đúng vậy không?” Đoàn Tử Huyến cười nhăn cả mũi: “Thì đúng vậy chứ sao!”

  • HOÀNG VŨ THUẬT(Đọc Hoạ mi năm ngoái - Thơ Trần Kim Hoa, NXB Văn học, 2006)

  • LTS: Sông Hương vừa nhận được lá thư của ông Tế Lợi Nguyễn Văn Cừ gửi cho nhà nghiên cứu Phan Thuận An nhằm cung cấp lại bản gốc của bài thơ “Cầu ngói”. Xin nói thêm, ông Nguyễn Văn Cừ là con của ông Nguyễn Văn Lệ, tác giả bài thơ.Sông Hương xin đăng lá thư này để hầu mong rộng đường trao đổi.

  • HOÀNG VŨ THUẬT(Đọc Ngày không ngờ - thơ Nguyễn Bình An, NXB Thuận Hóa 2007)

  • VĨNH NGUYÊN(Nhân xem tập thơ Nhật thực của Nhất Lâm, Nxb Thanh Niên, 2008)

  • NGÔ MINHLTS: Ngày 13-2-2007, Bộ Văn hoá Thông tin đã công bố quyết định của Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam về việc tặng giải thưởng Hồ Chí Minh và giải thưởng nhà nước về văn học nghệ thuật. Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ được là 1 trong 47 nhà văn được giải thưởng nhà nước với chùm tác phẩm: Đề tặng một giấc mơ (tập thơ 1988), Trái tim sinh nở ( tập thơ - 1974), Bài thơ không năm tháng (tập thơ - 1983). Nhân dịp ngày Quốc tế phụ nữ 8-3, TCSH xin giới thiệu bài viết của nhà thơ Ngô Minh về nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ.

  • BÙI VIỆT THẮNGVịt trời lông tía bay về (*) là sự lựa chọn có thể nói rất khắt khe của chính nhà văn Hồng Nhu, rút từ cả chục tập và chưng cất ba mươi truyện ngắn tiêu biểu của gần trọn một đời văn. Con số 33 là ít những không là ít vì nhà văn ý thức được sâu sắc quy luật nghiệt ngã của nghệ thuật ngôn từ “quý hồ tinh bất quý hồ đa”. 33 truyện được chọn lọc trong tập sách này có thể gọi là “tinh tuyển truyện ngắn Hồng Nhu”.

  • PHẠM PHÚ PHONGPhạm Đương có thơ đăng báo từ khi còn là sinh viên khoá bốn, khoa Ngữ văn đại học Tổng hợp Huế. Đó là thời kỳ anh sinh hoạt trong câu lạc bộ văn học của thành đoàn Huế, dưới sự đỡ đầu của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm (lúc này vừa rời ghế Bí thư thành đoàn, sang làm Tổng biên tập Tạp chí Sông Hương vừa mới thành lập.)

  • HÀ KHÁNH LINHNgười lính chiến trở về bỏ lại một phần thân thể của mình trên trận mạc, tựa vào gốc nhãn hoang bên vỉa hè lầm lụi kiếm sống, thẳng ngay, chân thật, khiêm nhường.

  • PHẠM XUÂN NGUYÊNTrong Ngày Thơ Việt vừa qua, một tuyển tập thơ “nặng hàng trăm năm” đã được đặt trang trọng tại Văn Miếu Quốc Tử Giám Hà Nội. Rất nhiều những bài thơ xứng đáng với danh xưng hay nhất thế kỷ XX đã “biện lý do” vắng mặt, và ngược lại. Đấy là một trong nhiều sự thật được đa phần dư luận kiểm chứng. Cũng là một góc nhìn khá rõ nét, Sông Hương xin giới thiệu ba bài viết của Phạm Xuân Nguyên, Nguyễn Hữu Qúy và Phước Giang về tuyển tập thơ “nặng ký” trên.

  • NGUYỄN HỮU QUÝCuộc thi bình chọn 100 bài thơ hay nhất Việt Nam thế kỷ XX do Trung tâm Văn hoá doanh nhân và Nhà xuất bản Giáo Dục phối hợp tổ chức đã kết thúc. Một ấn phẩm mang tên “100 bài thơ hay nhất Việt thế kỷ XX” đã được ra đời. Nhiều người tìm đọc, trong đó có các nhà thơ và không ít người đã tỏ ra thất vọng, nghi ngờ.