Còn đó những vết nứt hỗn nham

14:32 02/05/2012

TRÀNG DƯƠNG

(Ðọc Phù Hoa, truyện thơ Văn Cát Tiên - Nxb Văn Học, 2011)

Bìa truyện thơ “Phù Hoa” của Văn Cát Tiên

Thơ có thể là lời đồng vọng toát lên từ sâu thẳm tâm thức, biểu hiện bằng thứ ngôn ngữ đầy quyền năng để giải bày mọi xúc cảm của tâm hồn, ở chừng mực nào đó cũng là tiếng nói lương tri của thời đại. Và trong sự gặp những vần thơ được ươm mầm từ một xã hội đương phát sinh nhiều vấn đề “đáng báo động” về đạo đức, lối sống. Với lẽ đó, Phù Hoa của Văn Cát Tiên đã khơi gợi một không gian hiện tồn trong sự bát nháo của đồng tiền và những thói đời phù phiếm. Nhà thơ đã gửi gắm những tâm sự của mình qua cuốn truyện thơ Phù hoa dày dặn 4.306 câu, chia làm 40 chương. Phù Hoa đi theo lối truyện thơ cổ điển - một thể loại kể chuyện bằng thơ, biểu hiện ý nghĩ bằng ngôn ngữ đa hình ảnh, đầy chất tự sự, phê phán xoay quanh nhiều vấn đề bức xúc của xã hội. Tác phẩm bám theo lối diễn đạt kiểu hình thức cố sự của truyện kể dân gian, điểm xuyến thêm những chi tiết trữ tình làm giàu không gian thơ. Phù Hoa có sự tương đồng về mặt hình thức thể hiện của truyện Kiều (Nguyễn Du), Lục Vân Tiên (Nguyễn Đình Chiểu)… Câu chuyện thể hiện qua những vần điệu của thể thơ lục bát, diễn tả về lối sống, phẩm chất, số phận của nhiều hạng người trong xã hội

Qua hàng ngàn câu thơ, Phù Hoa đã khái quát rằng: “Đời nay chơi chữ dẻo mồm Văn chương đa dụng khôn buồn cổ nhân, có thể nói đó là lời tâm sự nhân tình thế thái của nhà thơ bộc bạch trong 40 chương sách. Mượn Phù Hoa để nói, để chỉ, để thấy bao vấn nạn, bao bộ mặt còn lẩn khuất dưới vô vàn cái vỏ hoa mỹ khó mà “gõ cửa làm phiền”: “Sông sâu tăm cá khôn dò Thời gian diệu vợi sảy đo lòng người”. Và cả những câu hỏi mang tính luân lí, phẩm cách đang là chủ đề nóng hổi hiện nay trong xã hội với giá trị: “Chữ trinh trong cõi đàn bà Biện rằng thanh khiết dăm ba bảy đường”. Bám vào chủ đề ấy, Phù Hoa đã bày ra một cảnh tượng hỗn nham của thế sự, đang chực “đạp đổ” các giá trị truyền thống; những “sợi dây đạo đức” đã bị tháo gỡ bởi những con người bon chen, hám lợi.

Câu chuyện khởi đi từ cuộc sống ở một gia đình trí thức họ Đàm, nơi xuất phát những bi kịch lớn, ngọn nguồn của những tai ương, đổ vỡ. Đàm từng là một quân nhân có công thời kháng chiến, sau trở thành một giáo sư, hiệu trưởng một trường đại học. Khi đã có công danh sự nghiệp vững vàng, được cất nhắc thăng tiến, Đàm đã dùng vị thế của mình để trục lợi “Nắm ngân sách tuyển sĩ hiền Vẫy tay kí toẹt nghìn tiền như chơi”. Sự thoái hóa, biến chất của một lớp người đã khiến tác giả vì thế mà thốt lên: “Nếp nhà rách toạc oai nghiêm/ Sợ thay đô thị đảo điên tình người”.

Giàu quá hóa hư, con gái Đàm Thục Song tỏ ra ăn chơi giữa chốn thị thành: “Áo thun quần sooc khơi khơi Cô kiêu hãnh giữa triệu người bon chen”. Thân gái dạt trôi, bị cào xé đến độ sau này sa đà trở thành món đồ chơi của sư Thích Thiếu Nhơn, gái karaoke, vũ trường: “Mơ màng nhạc vũ trường xoay Giường khuya trai lạ vui vầy tình suông”; rồi trở thành món hàng kinh doanh của bè lũ Phạm Nghi. Số phận éo le, trắc trở của Thục Song khiến nhà thơ phải “mượn đàn” mà rằng: “Lẩy ngâm đoản khúc trần ai Nhân gian ai đó thở dài mà trông”.

Vợ Đàm ngoại tình chỉ vì “Lấy chồng từ trước đến giờ Ái ân nào thỏa những mơ khát tình”, lại cặp bồ với Nguyễn Hoành là con Nguyễn Bân, bạn chí cốt của ông hiệu trưởng họ Đàm. Nhà thơ đã gióng lên một hồi chuông thế sự: “Vài năm đổi mới chưa lâu/ mà nền đạo đức bạc màu gớm ghê”. Những câu đúc kết từ hệ quả của lối sống: “Ở đời đem bán chữ tâm/ Cố mua cho được chữ tham đem về”. “Cầm dao sắc cũng có ngày/ chớ là cầm bút vụng xoay cửa ngoài” để kết luận cho một bi kịch của một gia đình trí thức sau khi họ Đàm bị tố cáo, vợ theo trai, con gái phiêu bạt.

Ấn tượng nhất là tuyến nhân vật phản diện trong Phù Hoa, là tập hợp những con người có vị thế trong xã hội, có công danh địa vị nhưng lại là những kẻ bạc ác, bụng dạ khó lường. Đó là cha con Phạm Hiền, Phạm Nghi, Kiều Xuân, Nguyễn Hoành, Đàm thị, sư Thích Thiếu Nhơn, Đào Ngọc Vinh, gã giang hồ Quách Bắc Giang...

“Ổ tha hóa” đầu tiên phải nói đến nhân vật Phạm Hiền hiện lên với dung dáng của một ông quan tham lam xấu tướng “Bụng to bệ vệ cổ tròn thắt nơ”, tóc tai chải chuốt bóng lộn đến nỗi “Ruồi con uổng mạng trượt chân té nhào”. Trong Phù Hoa, Phạm Hiền là một Cục trưởng hải quan, quyền uy đầy mình: “Lọng che vững chải trên đầu/ Ghế êm bợ đỡ ruồi bâu chật đường”. Thế nhưng nhân vật này lại là hạng quan tham, thu nhập chính là tiền hối lộ do các doanh nghiệp, con buôn muốn qua ải thoát thuế, nhập lậu. Quan tham gặp được gái “hồ ly” trải đời Kiều Xuân, người từng giành giải hoa khôi: “Thân hình bốc lửa mời xơi/ Trang bìa áo tắm mỉm cười thơ ngây”. Sự kết hợp “ngưu tầm ngưu” này là một cái mode trong đời sống thường ngày mà không ít bài báo đã nêu về mối quan hệ “cộng sinh” giữa người đẹp và quan chức. Tấn công vào cái “sào huyệt đen” này, tác giả Phù Hoa tỏ ra rất mạnh dạn, am tường những chi tiết đậm đặc tính “tả chân”. Nhưng Kiều Xuân lại là hạng đẹp người tà nết, trước yêu Phạm Hiền sau lại kết hôn với con trai của Phạm Hiền là Phạm Nghi, thạc sĩ du học Anh quốc. Phạm Nghi sau trở thành một tay kinh doanh “đen” nhiều mánh nhiều khóe: “Kịp theo đòi lối thương trường/ Ăn chơi quen nết chán chường bướm ong”.

Cha làm quan, con doanh nhân tạo nên một bộ sậu thế lực đầy đủ cả quyền lẫn tiền. Phạm Nghi là một nhân vật lườn lách như rắn, khôn ngoan hiểm độc. Y tận dụng mọi thứ để kiếm tiền, trục lợi, buôn đỏ bán đen, kinh doanh đa ngành nhưng toàn là những thứ làm hại xã hội, ngay cả đám tang của chú Bác mình là Thứ trưởng Phạm Bách, Nghi cũng tìm mọi cách để kiếm lời. Ấy thế mà Phạm Nghi thăng quan tiến chức vùn vụt, có tiền thì mua bằng tiến sĩ, túi đầy mồm dẻo nên lại trúng cử đại biểu Hội đồng nhân dân. Trần gian tiêu khiển bao lạc thú nhưng vẫn tòm tem gạ gẫm người yêu của em họ Hải Thụy (con Phạm Bách) là Tố Quyên để tình duyên đôi bên hiểu lầm; lại đan tâm hãm hại Gia Hân, Thái Ngọc Thiều. Phạm Nghi băng hoại đến nỗi nhà thơ mượn cảnh huynh đệ Tào Phi – Tào Thực tương tàn mà than rằng: “Sanh ra cội rễ một nhành/ Đậu sôi bỏng lửa do cành đậu đun”. Phạm Nghi là nhân vật “bẩn” nhất về đạo đức trong Phù Hoa, về thứ bậc có thể sánh với Sở Khanh, Mã Giám Sinh trong Truyện Kiều, Trịnh Hâm, Bùi Kiệm trong Lục Vân Tiên.

Tác giả không ngần ngại tạo dựng nên những nhân vật điển hình của tệ đạo đức giả, tấn công vào những gương mẫu mực khi chính họ lại là biểu trưng của một hình tượng phẩm cách. Sư hổ mang Thích Thiếu Nhơn lộ ra: “Lạ cho chiếc áo cà sa/ Họ Trư khéo mặc cáo già chân tu”, kẻ đã hãm hiếp Đàm Thục Song khi cô bỏ đi bụi đời, dạt đến chùa Long Thiện, nơi đây là hang ổ của bọn háo sắc đội lốt thầy chùa. Những vết nứt của xã hội, lòng người cuốn hút xô bồ trong dòng chảy thác nộ của đồng tiền. Thế nhưng, trong sự hỗn nham đó, Phù Hoa vẫn ngời lên những con người, những tâm hồn sống trong bùn nhưng không bị nhiễm đen. Một gia đình Phạm Bách từ cha cho đến hai con là Gia Hân và Hải Thụy hiện lên là những con người công chính, biết ngọn nguồn đúng sai, hành xử luôn hợp lòng người. Bản thân Phạm Bách làm đến chức Thứ trưởng ngoại giao, suốt đời giữ mình trong sạch: “Bắn vào quá khứ u mê/ Tương lai đại bác dội về thì sao”. Và những chiêm nghiệm của một con người sống qua thời đất nước gian lao: “Chiến tranh khốc liệt thế nào/ Tự do phải đổi máu đào thắm sông”. Phạm Bách cho đến lúc chết vẫn giữ được khí tiết của một người làm quan mà lòng “sáng tựa sao Khuê”.

Thành công nhất của Phù Hoa ngoài việc tạo hiện nên một xã hội đầy rẫy những con người tha hóa, đốn mạt bỗng dưng hé nở “bông hoa tình yêu” Hải Thụy – Tố Quyên: “Sét trời vô ý làm chi Nổ toang tim lạnh mấy bề tương tư”. Một tình yêu sét đánh, bất ngờ với một cô gái rất thôn nữ, “Lòng em cửa đóng then cài Vườn hồng chẳng thiếu anh tài rắp ranh”. Giữa những bộn bề, nhốn nháo của một xã hội đang tất bật kinh tế thị trường, kiếm ra một tình yêu hương đồng gió nội như thế này đã khiến những đổ vỡ của phù hoa như dạt sang bên, nhường chỗ cho đôi uyên ương bước ra từ thi mộng. Văn Cát Tiên đã tạo dựng nên nhân vật Tố Quyên, một cô gái giàu ý chí, bị cuốn vào những tai vạ của đời nhưng vẫn giữ tâm hồn thanh sạch. Tố Quyên là một hình tượng nhân vật đoan trang, hiền thục, một thôn nữ đẹp người tốt nết, xuất hiện trong Phù hoa có lẽ là thuộc dạng hiếm. Ngay cả khi bị ruồng bỏ, lỡ mang bầu với Hải Thụy “dù mang tiếng xấu không cha còn hơn giết trẻ ruột rà dạ mang”. Tố Quyên không phải là một con người dễ bị vẩn đục giữa bùn đen mà thế lực xấu xa rắp tâm hãm đặt. Và hôn phu Hải Thụy cũng là một con người cũng rất đáng để học tập. Hải Thụy vốn tình tính hiền lành lại làm công tác thanh tra, nhiều lần bị mua chuộc, bị sa vào bẫy của tập đoàn Phạm Nghi nhưng rồi Hải Thụy đã đứng lên, từ bỏ mối quan hệ với thế lực bất chính. Anh yêu Tố Quyên bằng cả trái tim, hết lòng chăm lo cho người mình yêu. Nhưng tình yêu của họ lại lắm gian truân, trắc trở. Phạm Nghi xảo quyệt muốn gạ gẫm Tố Quyên đã bày kế chia lìa, khiến Hải Thụy ưu tư: “Nhìn mây bay gấp chạnh lòng/ Non xa khuyết bóng gió đông nặng nề”. Nhân vật này bị cuốn vào những trò lừa mưu mô của “tập đoàn kinh doanh đen” Phạm Nghi, lắm lúc làm những chuyện trái với lương tâm. Nhưng Hải Thụy đã sớm biết sám hối và thoát ra khỏi vòng xoáy “Cố không theo lối gian tà/ Hạnh phúc ngắn ngủi phù hoa lẽ nào”, để rồi đoàn viên với Tố Quyên bên đứa con thơ: “Con ơi con ngủ cho hiền/ Mẹ còn gánh mực tẩy phiền trần gian”.

Một thành công khác trong Phù Hoa đó là việc xây dựng những chi tiết xung quanh mối tình Gia Hân và Thái Ngọc Thiều. Phải nói là Gia Hân (em gái Hải Thụy) và Thái Ngọc Thiều là hai nhân vật có tính chất quyết định đối với cái kết của câu chuyện. Họ như những người hùng thực thi công lý, xóa bỏ những cái xấu xa, dối trá. Tác giả rất hợp lí khi đặt Gia Hân vào vai nhà báo, Thái Ngọc Thiều vào vai nhân viên điều tra, đây là biểu trưng của hai cánh tay đắc lực đại diện cho xã hội lương tri để thực thi công lý. Hai nhân vật này đã vạch mặt buộc tội tập đoàn Phạm Nghi ra ánh sáng. Tình yêu đôi lứa được ví von với phẩm hạnh: “Hãy yêu cho thật đậm đà/ Hãy chắc tay đấm xấu xa cuốn cờ”.

Những nhân vật khác như lão nông Nguyễn Bân (cha Nguyễn Hoành và Tố Quyên) chân chất một đời sống của người nông dân chân lấm tay bùn. Dù quá khứ bị cuốn xô vào những bi kịch nhưng Nguyễn Bân vẫn giữ vững đức tính của một con người hướng thiện: nuôi dạy con cái đàng hoàng, chống chọi với lâm tặc để bảo vệ rừng quê hương. Đàm giáo sư sau khi thất cơ lại về sum vầy nơi thôn Khâu với bạn chí cốt Nguyễn Bân, an vui cuộc sống điền viên. Sau này Đàm Thục Song cũng về đoàn tụ với cha, một kết thúc tốt đẹp cho một cuộc đời sóng gió bụi trần.

Thế giới nhân vật trong Phù Hoa phân tuyến chính – tà rõ ràng; tà thì bị diệt, chính được tôn vinh. Phù hoa kết thúc bằng một cái kết có hậu theo quan niệm nhân quả, mang tính motip điển hình trong thể truyện thơ tự sự dân gian.. Phần Nguyễn Hoành sau khi cặp bồ với Đàm thị lập đường dây buôn bán thuốc tân dược giả, gây nên nhiều hậu quả nghiêm trọng cho xã hội, cuối cùng lại bị rơi vào bẫy Phạm Nghi, bị tố giác, chết một cách oan uổng.. Đàm thị hay tin cũng hóa điên theo. Phạm Hiền ăn chơi trác tán bị mắc bệnh HIV, Kiều Xuân cũng có kết cục tương tự. Tập đoàn Phạm Nghi đều bị đưa ra ánh sáng: Nghi bị kết án tử hình, Quách Bắc Giang lãnh án chung thân, Đàm Thục Song lãnh án mười năm. Âu là một cái hậu cho những kẻ gian thâm, hủ hóa. Lưỡi gươm công lí đã hành xử, cái xấu cái ác phải núp vào bóng tối, nhường chỗ cho ánh sáng của tình thương và lương tri.

Ngoài những chi tiết mang tính chất diễn tiến của câu chuyện, Phù Hoa còn sáng lên những câu lục bát đầy ắp thi ảnh: “Trăng thu bạc phếch trên ngàn/ Thông cao vi vút hổ than thở tình – “ Sương bồng bềnh, phố trưa im / Hoa mách lẻo nắng, thác kìm tiếng mưa” hay “Lô nhô núi xám in hình/ Nép trong lau lách gập ghềnh thác reo” trong những đoạn nói về tâm sự phiêu bạt của Đàm Thục Song (Chương 4).

Đẹp nhất, thơ mộng nhất có lẽ là những chi tiết hình ảnh về thôn Khâu, một vùng quê vốn dĩ yên bình trước khi bị làn sóng kinh tế thị trường hút vào guồng quay: “Nhành khô nảy nụ đầu mùa/ Hạt thóc thức rễ mộng ngô chõi mình” khi miêu tả cản lão nông Nguyễn Bân tất bật với công việc ruộng đồng (Chương 7). Hay hình ảnh: “Nắng thắp tơ lụa lên trời/ Lá đong đưa gió gọi mời ý xuân” nói về cuộc sống yên bình của cô thôn nữ Tố Quyên nơi thôn dã hữu tình (Chương 9). Thôn Khâu, một vùng quê bình yên hương đồng gió nội: “Vi vu gió lộng nâng diều/ Đường làng thôn nữ gánh chiều vàng lưng”, và “Nghé con nghển cổ đo sừng/ đồng xanh gù gụ cu cườm gáy ran”, làm thắm lên mối tình tươi đẹp Hải Thụy, Tố Quyên (Chương 13).

Đến cả những chi tiết đối sánh:“Khuôn trăng vắt vẻo đầu non/ Cao ốc sừng sững vô hồn nhân tâm” (Chương18). Trăng, biểu tượng muôn đời của thơ giờ đây lẩn khuất giữa cao ốc vô hồn, một hình ảnh xô bồ, làm mất đi vẻ đẹp truyền thống của thi ca. Đó là bức tranh đô thị nhốn nháo, ngược xuôi những đòi hỏi vật chất, lợi ích dẫn đến tình trạng “khánh kiệt tâm hồn”. Trong Phù Hoa có thể thấy tâm trạng nuối tiếc trước những đổ vỡ của công nghiệp hóa, đô thị hóa đang làm biến dạng những khung cảnh tươi đẹp, giờ đây chỉ còn thấy trong thơ.

Năm 2011 vừa rồi, được biết Văn Cát Tiên với tấm lòng tri ân, từ thiện đã dùng toàn bộ số tiền quyên góp được từ nhuận bút Phù Hoa để giúp đỡ các nạn nhân chất độc da cam ở hai địa bàn TT- Huế và Quảng Trị với con số lên tới cả trăm triệu đồng.

Thơ và đời, hai phạm trù song hành với nhau, làm được những điều ý nghĩa thực tế như Văn Cát Tiên âu là một phương pháp hữu nghiệm để lột đi cái vỏ phù hoa phiếm diễn trong thực tại của xã hội chúng ta.

T.D
(SH278/4-12)







 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN TRỌNG TẠOCó người làm thơ dễ dàng như suối nguồn tuôn chảy không bao giờ vơi cạn. Có người làm thơ khó khăn như đàn bà vượt cạn trong cơn đau sinh nở. Có người không đầy cảm xúc cũng làm được ra thơ. Có người cảm xúc dâng tràn mà trước thơ ngồi cắn bút. Thơ hay, thơ dở, thơ dở dở ương ương tràn ngập chợ thơ như trên trời dưới đất chỉ có thơ. Thơ nhiều đến ngạt thở chứ thơ chẳng còn tự nhiên như hơi thở mà ta vẫn hoài vọng một thời.

  • THẠCH QUỲSuốt đời cần mẫn với công việc, luôn mang tấm lòng canh cánh với thơ, vì thế, ngoài tập “Giọng Nghệ” in riêng và bao lần in chung, nay Ngô Đức Tiến lại cho ra tập thơ này.

  • Trong đội ngũ những người hoạt động văn nghệ tại Thừa Thiên Huế, bên cạnh các Hội chuyên ngành trực thuộc Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật (như Hội Nhà văn, Hội Mỹ thuật, Hội Âm nhạc…) có một tổ chức gọi là “Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Thừa Thiên Huế”(CHNV).

  • Hà Khánh Linh xuất thân trong một gia đình khoa bảng nổi tiếng ở Huế. Tên khai sinh của chị là Nguyễn Khoa Như Ý. Năm 20 tuổi, đang học dở dự bị đại học Khoa Học Sài Gòn thì chị quyết định bỏ học để gia nhập quân Giải phóng. Từ đó cho đến khi nghỉ hưu chị đã từng đi dạy, làm phóng viên Đài phát thanh Giải phóng, Đài phát thanh Bình Trị Thiên, làm biên tập, Thư ký Tòa soạn rồi Phó tổng biên tập Tạp chí Sông Hương. Chị quen biết và giao tiếp khá rộng từ các vị quan chức đến các vị đại đức, linh mục, trí thức... cùng những năm tháng gian khổ ở chiến trường Trị Thiên, những chuyến đi thực tế ở Căm pu chia... đã giúp chị có một vốn sống hết sức phong phú.

  • Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ sinh ra và lớn lên bên bờ sông Kiến Giang thơ mộng. Nhưng tuổi thơ của chị chứa đầy buồn đau và nước mắt: Mẹ không có cửa nhà/  Em đứa trẻ vắng cha/ Như mầm cây trên đá/ Biết khi nào nở hoa? Nỗi tuyệt vọng cứ ám ảnh suốt cả tuổi thơ của chị. Trong một bài thơ đầu tay chị viết: Tuổi thơ tôi như ráng chiều đỏ lựng/ Hắt máu xuống dòng sông đen.

  • Trần Thùy Mai bắt đầu được các bạn trẻ yêu thích văn chương ở Huế biết đến khi chị đang học ở trường Đồng Khánh những năm trước giải phóng (1975). Tốt nghiệp vào loại xuất sắc, chị được giữ lại làm cán bộ giảng dạy ở trường đại học Sư phạm Huế. Dạy ở trường đại học Sư phạm Huế được một vài năm, chị chuyển sang làm công tác biên tập ở nhà xuất bản Thuận Hóa. Đây là một quyết định khá táo bạo và sáng suốt. Làm việc ở nhà xuất bản, chị có điều kiện viết lách hơn.

  • LÊ HUỲNH LÂM                 (Đọc Viết bên Hộ Thành hào - thơ Nguyên Quân -, Nxb Thuận Hoá, 2009)Giữa những đổ nát hoang tàn quá khứ và hiện tại, khi mà thang giá trị bị đảo lộn, những mảnh vỡ đang vung vãi mọi nơi, tác giả lại tìm đến Hộ Thành hào để nhìn ngắm cõi lòng đang hỗn hênh mọi thứ và như chợt nhận ra niềm hy vọng mỏng mảnh, anh đã Viết bên Hộ Thành hào.

  • HOÀNG DIỆP LẠCBất chợt giữa một ngày mưa gió, nhìn những hạt nước toé lên từ mặt đất như những đoá hoa mưa. Một loài hoa của ảo giác. Có thể trong tâm trạng như vậy, Lê Tấn Quỳnh chợt hỏi:Hoa vông vangCó hay không

  • ĐINH NAM KHƯƠNG(Thơ Tuyết Nga - NXB Hội Nhà văn 2002)

  • NGUYỄN VĂN HOA1. Cuối thế kỷ 20, tôi làm cuốn sách “Tuyển tập thơ văn xuôi Việt Nam và thế giới” cùng tiến sỹ Nguyễn Ngọc Thiện (Viện Văn học Việt Nam), trong tập sách này gồm phần học thuật và phần tuyển thơ Việt Nam và Thế giới. Phần thơ Việt có nhiều tác giả sinh sống ở Huế, ngẫu nhiên-tình cờ có hai nhà thơ có thơ trong tập này, đó là Hải Bằng và Hải Trung.

  • NGA LINH NGA1. Xuất bản mười hai tập thơ, mười hai tập văn xuôi, một tập nhạc; viết mười hai kịch bản phim chân dung, hai mươi lời bình cho các phim khác, biên soạn hai mươi tập nhạc... điều thật khó tin ở một người nổi tiếng rong chơi, thích cao đàm khái luận, thường không mấy khi vắng mặt nơi những cuộc rượu của đám văn nghệ Hà Thành như Nguyễn Thụy Kha.

  • L.T.S: Trong vài năm lại đây, ở Huế, chưa có tập sách nào ra đời lại gây được “hiệu ứng ngạc nhiên” cho bạn đọc như một hiện tượng ngoài tập Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa ấn hành vào dịp kỷ niệm 30 năm ngày giải phóng Huế và Đà Nẵng vừa qua. Ngoài các bài viết giới thiệu, phê bình in trên nhiều tờ báo trung ương và địa phương, Sông Hương vẫn tiếp tục nhận được thêm các ý kiến cảm thụ về tập thơ này.Xin trân trọng giới thiệu cùng quý bạn đọc

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG           (Đọc tập thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)

  • YÊN CHÂU          (Đọc Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)Giống như những cây xanh bói muộn bất ngờ cho một mùa hoa trái, thơ Nguyễn Xuân Hoa xuất hiện đột ngột như vậy. Anh không cho in rải rác đâu đó, cũng không đọc thơ ở những cuộc gặp gỡ bạn bè. Im lặng, đùng một cái cho ra hẳn một tập thơ. Thơ Trà My của nguyễn Xuân Hoa đã đến với bạn bè như vậy.

  • BÙI ĐỨC VINH            (Nhân đọc tập thơ “Cho người tôi thương nhớ”-NXB Hội Nhà văn 2004)Có một chàng thi sĩ phong tình đi lang thang vô định trên nẻo đường mưa bay gió tạt, chợt lơ đãng nhận ra mình là kẻ bị tình yêu truy nã trong bài thơ “Nhận diện” anh đã tự thú với trái tim thổn thức của mình.

  • INRASARA           (Đọc Mang, tập thơ của Phan Trung Thành, Nxb, Trẻ TP.Hồ Chí Minh, 2004.)Dòng Seine và cầu Mirabeau, cuộc tình với người tình. Sông đi và cầu ở lại, cuộc tình tan nhưng người tình thì ở lại. Mãi mãi ở lại, cùng nỗi buồn ở lại.                Con sông nào đã xa nguồn                Thì con sông đó sẽ buồn với tôi                                                (Thơ Hoài Khanh)

  • THANH THIỆNBốn mùa yêu là tập thơ tình mang ý nghĩa "vật chứng" cho một biệt lập tâm hồn có tên là Lưu Ly. Người thơ này dường như luôn đắm mình trong giai điệu tình yêu muôn thuở giữa ba ngôi Trao - Nhận - Trả và đã chọn cách trả sòng phẳng nhất cho sự nhận của mình là trả vào thơ.

  • NGUYỄN VĂN HOA(Nhân đọc Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường)Tôi đã đọc nhiều tác phẩm của Hoàng Phủ Ngọc Tường và tôi cũng đã gặp ông trực tiếp đôi ba lần ở Huế và Hà Nội. Nhưng ấn tượng nhất là buổi hội ngộ của gia đình tôi với ông ở nhà nhà thơ Ngô Minh ở dốc Bến Ngự Huế.

  • HOÀNG VŨ THUẬT         (Thơ Chất trụ của Nguyễn Hữu Hồng Minh- Nxb Thuận Hoá 2002)Nguyễn Hữu Hồng Minh không làm cái phép phù thuỷ đưa độc giả tới một không gian rắc rối. Quan niệm về thơ của anh được trình bày rất nghiêm túc qua bài “Chất trụ”, lấy tên cho tập thơ. Tôi rất đồng tình quan niệm này, không mới, nhưng không dễ làm người ta chấp nhận.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN(Đọc Dòng sông Mía của Đào Thắng)