Còn cây nảy chồi

14:17 04/01/2021

ĐÔNG HÀ  

Tôi vẫn nhớ, chưa bao giờ quên, bài ca dao Mười quả trứng. Bài ca dao được hát lên từ phiên chợ Kẻ Diên nghèo, một vùng quê Bình Trị Thiên khắc nghiệt.

Giữa dòng nước lũ (2020). Ảnh Hồ Ngọc Anh Tuấn

Tháng giêng, tháng hai, tháng ba,
tháng bốn, tháng khốn, tháng nạn
Đi vay đi dạm được một quan tiền
Ra chợ Kẻ Diên mua con gà mái về nuôi
Hắn đẻ ra mười trứng.
Một trứng: ung
Hai trứng: ung
Ba trứng: ung
Bốn trứng: ung
Năm trứng: ung
Sáu trứng: ung
Bảy trứng: ung.
Còn ba trứng nở ra ba con
Con diều tha
Con quạ bắt
Con mặt cắt xơi.
Chớ than phận khó ai ơi
Còn da lông mọc, còn chồi này cây!


Những ngày tháng mưa bão lũ lụt này, mỗi nhịp tim thở, mỗi suy nghĩ bật ra, mỗi hành động được thực hiện, tôi luôn nương theo âm nhịp bài ca dao này như một sự chở che tâm cảm.

Đất miền Trung hẹp, cái eo miền Trung lại bé. Đứng dưới động cát ngó lên mắt đã chạm đỉnh núi trước mặt. Sự khắc nghiệt của địa hình tạo nên những vẻ đẹp thần sầu cho non nước. Đi dọc từ Nam ra Bắc, tôi gặp nhiều vẻ non xanh thủy tú gấm vóc giang sơn, nhưng để thấy một nét trữ tình của dòng sông nép mình uốn lượn bên sự hùng vĩ sừng sững uy nghi của núi, thì chưa nơi nào có được như ở miền Trung này. Ngay cả chân núi, cũng được sự vỗ về dịu dàng của biển. Nên miền Trung có nhiều bãi cát tuyệt vời, vừa đẹp hiền như cô gái ngây thơ, vừa lả lơi như kỳ nữ kén khách, vừa thẳng thớm ngay ngắn như thiếu phụ trải đời, lại uốn một nếp cong đài các kín kẽ chẳng cần đấng bậc nào ghé qua. Bạn đi đi, một đường quân sự trải dài từ bờ biển ngay chân đèo Hải Vân, nơi vịnh Lăng Cô nổi tiếng thế giới, mà một mình một ngựa nhẩn nha đi theo chiều dọc từng ki lô mét đường biển, ra chạm thẳng đến bãi Đá Nhảy - Lý Hòa nơi chân đèo Ngang một chiều mây bãng lãng, tôi đồ rằng, bạn chỉ cần ngao du đến đó, cũng đã ngấm một phần cái bước đi một bước dừng của cụ Cao Bá Quát xưa, bạn hiểu nỗi niềm bâng khuâng bà Huyện đa mang khi qua đất khách, bạn thấm niềm riêng của Dương Văn An đã tiếc cái khí trời hơi đất mà nhuận sắc tập sách Ô Châu cận lục cho đời sau biết tốt xấu xưa nay.

Đi như là sống, với đất đai, với con người, với từng phong tục tập quán, để yêu thương hơn quê mình trải dọc trên cung đường uốn lượn chữ S thân thương.

Nhưng giờ này, khi chút điện vừa lên, tôi ngồi đây nhìn ra trước mặt mênh mông nước trắng. Đọc những tin nhắn hiện lên tới tấp trên màn hình, chỗ nào cũng nước và nước, tin nào cũng vùi lấp và đau thương, cuộc gọi nào cũng nghẹn ngào nước mắt, hối thúc nào cũng sinh mạng là trên hết. Khắp nơi trong dãy đất miền Trung này, giờ là nước mưa, nước lũ và nước mắt, giờ là đau đớn buồn thương của mất mát.

Một cuộc dốc sức dốc lực đang diễn ra. Từ chính quyền tới từng người dân, cơ quan đoàn thể đến từng cụm nhóm. Ai có gì góp đó. Ai có công góp công, có của góp của, có yêu thương góp yêu thương. Ai còn bị nước lũ giam cầm thì góp theo những thông tin có được. Tất cả, chỉ với một mục tiêu tối thượng, sinh mạng là trên hết.

Không chiến tranh nhưng vẫn điêu tàn. Tôi đã thấy những bạt ngàn nóc nhà ngập mái, tôi đã thấy những mênh mông khoai sắn lúa ngô chìm sâu, tôi đã thấy những ruộng nương bờ bãi biến mất. Quê tôi đó. Giờ này, bạn không còn nhẩn nha được nữa đâu, nhưng nếu đi trên một chiếc trực thăng cứu hộ nào đấy, bạn thấy gì ngoài những thứ đó? Mẹ Thiên Nhiên bao dung giờ nổi giận. Mẹ Thiên Nhiên hiền hòa giờ hết còn dung thứ. Mẹ Thiên Nhiên thức dậy với cơn thịnh nộ chưa từng, về một nỗi giận dữ gì đó, mà người đời chưa dám gọi tên.

Tôi vẫn ngồi yên. Giờ này biết làm gì hơn là ngồi yên ngóng nghe những xót xa truyền về. Vì tôi cũng đang bị giam cầm bởi xung quanh nước là nước, cũng những hạt cơm nguội chia nhau cầm chừng, cũng những hạt mắm muối mạ chưng cất từ mùa dịch trước cất lại. Và trái tim tôi, mỗi nhịp đập lại vang lên giai âm của bài ca Mười quả trứng.

Tháng giêng, tháng hai, tháng ba, tháng bốn, tháng khốn tháng nạn.

Dân gian muôn đời lớn lên từ văn minh lúa nước, con người nương nhờ vào thiên nhiên. Nên ngày tháng cũng ưu hòa như bài ca của đất, thành thử, tháng giêng là tháng ăn chơi, tháng hai trồng đậu tháng ba trồng cà… Bài hát ấy mỗi trẻ con lớn lên từ nông thôn xưa đều nghe đều nhớ, bởi cái âm vang của tiếng hát đầu xóm dưới thôn, bởi cái ấm nồng tí tách bếp lửa rét ngọt đầu xuân, bởi tiếng rổn rảng xóm làng thăm nhau ngày đầu năm tươi mới, bởi cái thuận hòa của đất trời muôn thuở việc nhà nông. Nhưng sao trong bài ca này, hai tháng cuối của câu nghe chừng ngắt phựt đứt lại, chững sững người ca? Tháng khốn, tháng nạn! Ui chao, vậy là, những ngày tháng trước đó có được thảnh thơi nông nhàn, có được vui ca múa hát nữa đâu! Có gì đó bất thường, nghẽn lại khiến nhịp câu ca kéo dài rồi đứng phắt. Đến mức, hai chữ khốn nạn cũng ngắt đôi ra, kéo ra, cho nối dài thời gian mới chịu!

Dân quê cơ cực đến cái chữ thốt lên cũng dài thêm cơ cực không dừng được.

Rồi họ làm sao? Họ ngồi yên trong cái cơ cực khốn nạn ấy ư? Thưa không! Hạt thóc muốn sinh sôi hạt thóc phải cựa mình bật mầm lớn dậy, thành đòng, thành lúa, thành hạt gạo nuôi cái cùng con. Nên bài ca mới đi theo nhịp dài chăm chúi làm ăn toan lo nghèo khó.

Đi vay đi dạm được một quan tiền
Ra chợ Kẻ Diên mua con gà mái về nuôi
Hắn đẻ ra mười trứng.


Hình ảnh con gà xuất hiện trong văn học từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây. Tôi nhớ câu chuyện cổ xứ tây phương, kể về cô chủ bé nhỏ mất bố mẹ, gia đình chỉ còn mỗi con gà. Khi cô bé khóc, con gà an ủi cô chủ hãy vui lên, gà đẻ thật nhiều trứng cho cô chủ mang ra chợ bán, lấy tiền mua được con lợn, lại đẻ con, mang ra chợ bán, lấy tiền mua được con cừu, xén lông mang ra chợ bán, lấy tiền mua được con bò, vắt sữa mang ra chợ bán… và cô chủ bé nhỏ ấy đã có một trang trại. Ôi con gà của niềm tin và hy vọng. Nên khi người nông dân xứ mình đi vay đi dạm, cũng phải khó khăn lắm, cũng đi lui đi tới lắm, cũng năn nỉ ỉ ôi khi tách đôi chữ vay/ dạm ra làm hai như thế, và đi mua con gà. Tôi mừng cho họ một, tôi thương dân xứ mình mười. Đã bao giờ dám nghĩ đến thứ gì ngon lành ấm áp cho mình của ngày hôm nay đâu. Cái gì tốt, thức gì ngon cũng cất để dành, ấp ủ cho ngày mai. Ngày mai nghe thật gần nhưng đôi khi ngày mai ấy chẳng bao giờ đến.

Như những ngày này, có biết bao nhiêu người ngày mai chẳng bao giờ còn đến. Con số thống kê chưa chính thức, giờ này, về chết: 121 người; mất tích: 38 người, về vật: 52.933 nhà bị ngập; 24.734 nhà bị hư hỏng, sập đổ; 924 ha lúa, 106.616 ha hoa màu, 461.627 con gia súc, gia cầm bị chết, cuốn trôi. (Nguồn: VTC 18/10/2020). Những con số lạnh lùng nhói đau. Nước vẫn ngập lút nóc nhà, người vẫn gồng mình cầu cứu, chính quyền vẫn tăng cường cứu trợ. Mẹ Thiên Nhiên vẫn cuồng nộ buông xuống miền Trung từng cơn nước giận dữ kinh hoàng. Bản tin trên truyền hình vẫn phát lên nhiều tin tức đau lòng. Những tin nhắn người thân gửi cho nhau vẫn bàng hoàng, xót ruột. Thiệt hại về người và của vẫn không ngừng tăng lên mỗi ngày.

Nhưng, bằng cách này hay cách khác, ngày mai không đến với người này, vẫn đến với người kia. Như người nông dân nghèo khó từ buổi chợ phiên Kẻ Diên kia, ơ kìa, con gà đẻ ra mười trứng! Mười niềm hạnh phúc, mười mầm yêu thương, tròn trịa, hiền lành và non thơ ngơ ngác. Nhưng mười quả trứng ấy sẽ nở ra mười con gà, mười đàn lợn, mười đàn cừu, mười đàn bò… chắt chiu mà sẽ ấm no đền đáp. Tôi lại nhớ bài thơ Đò Lèn của nhà thơ Nguyễn Duy. Bài thơ thật buồn thương với niềm xót xa trìu mến của đứa cháu/ nhà thơ dành cho bà của mình. Bài thơ là những ký ức tuổi dại bên váy bà ấm êm. Tôi vẫn nhớ không phai câu thơ chẵng chịu: “Bom Mỹ dội, nhà bà tôi bay mất/ Đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền/ Thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết/ Bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn”. Lúc tất cả mọi thứ biến mất, từ hữu hình đến vô hình, từ thực thể đến tâm linh, mọi thứ trắng tay, người bà lại vẫn kẽo kẹt gánh xưa trên vai. Chao ôi, lại hình ảnh quả trứng. Sao bà không bán gì dễ dàng hơn? Phải chăng từ vô thức, hình ảnh quả trứng lại trở về, trong cuộc đời cơ cực nhưng không thôi nuôi niềm hy vọng.

Vậy rồi, người nông dân ấy có được hưởng thành quả của mình không? Người dân gian đã bày ra một kết quả chi mà gian nan.

Hắn đẻ ra mười trứng.
Một trứng: ung
Hai trứng: ung
Ba trứng: ung
Bốn trứng: ung
Năm trứng: ung
Sáu trứng: ung
Bảy trứng: ung.


Người dân gian đếm từng quả trứng với giọng ngắt đứt đoạn. Sao họ không kêu lên một con số “bảy” cho dễ xác định thiệt hại của mình? Không, họ đếm từng con số, cũng là từng chút một hy vọng. Hy vọng bao giờ cũng sẽ được tiếp nối tiếp nối để người mong chờ giữ được sợi tia sáng dẫu mong manh. Nhịp thơ 2/1 của câu thơ ngắn lại được ngắt làm đôi của dấu hai chấm càng làm hơi thở người nông dân gắt lại. Đó cũng là cách nói của người miền Trung. Đơn giản, ngắn ngủi không mỹ miều uyển ngữ. Bởi cái sự sống cơ cực khốn cùng, đôi khi đẩy người ta vào kiệt lộ. Nên câu thơ cũng ngắn như nỗi niềm hy vọng của người ta.

Trước mắt tôi, những dòng tin, những hình ảnh lại hiện lên trong cơn lũ lụt tàn phá. Những con trâu con nghé, những đàn heo đàn gà, những vườn rau xác xơ, những bao lúa mọc mầm lên mộng… Đất cưu mang, nước dung dưỡng. Giờ đây bùn chất phủ, nước cuốn phăng. Những khuôn mặt khắc khổ như rễ cây gằn lại từng đường nước mắt hằn trên gương mặt. Làn da đã bóng sạn, đôi mắt đã thất thần, đôi tay khô khốc. Con người đối mặt với thiên tai đâu dễ gì nắm được phần thắng. Chỉ mong một chút nương tay sự giận sự, mà náu nhờ qua được cái phẫn nộ cuồng điên của phong ba bão táp đang quật về trên cánh đồng, nương bãi, vườn tược, cửa nhà. Bảy trứng ung! Một kết quả thảm thương cho niềm hy vọng khôn nguôi trên cánh đồng sự sống. Giọng thơ thất thần, buồn bã, thê lương.

Nhưng không! Sự sống vẫn còn tiếp tục, bài ca dao như tiếng hát ru của người Bình Trị Thiên vẫn còn dấy lên niềm hy vọng.

Còn ba trứng nở ra ba con.

Câu thơ thật thà như một lời reo của người nông dân chân chất, hiền hậu. Đó cũng là một kết quả tất yếu. Ba trứng: ba con! Vậy thôi, vậy thì có gì mà thơ, có gì mà hát lên, có gì mà reo vui đến thế? Bởi đó là sự sống sẽ tiếp diễn. Nên người dân gian đã bỏ qua cấu tứ thi từ, để đưa vào bài thơ những câu “nói lối” mộc mạc, giản dị rất đời thường. Nhưng tất cả đâu dễ dàng đến thế. Ba con gà của niềm hy vọng đó, đã quyện nhau cuốn đi mất trong những câu thơ tiếp theo:

Còn ba trứng nở ra ba con.
Con: diều tha
Con: quạ bắt
Con: mặt cắt xơi.


Hết! Từ ngữ người dân gian đặt ra thật kinh khủng. Họ đã dùng từ quấn riết kéo róng lấy nhau. Chữ “tha” như bắt vận với chữ “quạ” lại kéo tiếp chữ “bắt” xuống chữ “mặt cắt” thật nhanh như cuốn lấy nhau. Với cách gieo vần này, khi ba câu ca cất lên, tôi tưởng như có gì đó, có ai đó, có chuyện nào đó… cứ quấn riết kéo nhanh và trượt trôi đi thành quả nhỏ nhoi của người nông dân tội nghiệp. “diều tha”, “quạ bắt”, “mặt cắt xơi”, thiết tưởng, như một đạo quân ba cánh tiền trung hậu ra sức tung hoành lấn lướt và cuối cùng xóa hết những niềm tin, sự sống của con người.

Trong những ngày này, người dân miền Trung đang đối mặt với điều gì đây? Bão qua, lũ lụt lại, và bây giờ đang đối mặt với cơn bão số 8, cơn bão số 9 và những cơn bão nữa hình thành từ khơi xa. Nhưng mất mát đau thương về người, những thiệt hại khủng khiếp về của, những di chứng của thiên tai chưa được khắc phục trong đời sống, những bàng hoàng thảng thốt chưa phai trên mỗi gương mặt người dân. Phải đó là diều tha, quạ bắt, mặt cắt xơi không? Câu ca ra đời cách đây mấy trăm năm nơi góc chợ Kẻ Diên quê mùa nào đó, sao bây giờ như tiếng nói hộ của hàng triệu người dân miền Trung thắt thẻo trước tai ương!

Ca dao, là tiếng hát của con dân nước Việt. Những câu ca thường mềm như dải lụa uốn lượn dòng bờ biển Đông. Lúc thác ghềnh nỉ non, lúc hiền từ êm dịu. Nên người dân gian lựa hai câu lục bát làm nên cấu tứ cho bài thơ cũng là một cách tạo sự nhịp nhàng cho người hát, người diễn ngâm. Vậy mà sao trong bài ca Mười quả trứng tôi đọc suốt bao nhiêu năm, nhịp thơ vẫn cứ ngắt đi từng quãng. Những câu thơ không đủ dài, không đủ mượt, không đủ ngân nga. Chỉ là những câu nói lối đơn sơ chân chất đến ngủng ngẳng khó nghe. Nhưng biết làm sao được, đứng trước con đường cùng, đến Cao Bá Quát cũng phải thốt lên đau khổ “Khách tử lệ giao lạc” khi đi ngang vùng cát mênh mông “nhất bộ nhất hồi khứ” kia mà.

Thế rồi, từ những câu thơ trúc trắc ngắt quãng đó, người đọc bất ngờ biết mấy, khi kết thúc bài thơ, lại là cặp câu lục bát dịu dàng mềm mại buông ra:

Chớ than phận khó ai ơi
Còn da lông mọc, còn chồi nảy cây!


Sao những câu thơ về niềm tin, về hy vọng trong mười quả trứng ở trên nó trúc trắc ngắc ngứ, thì hai câu kết lại hiền hậu và nhẹ nhàng đến thế. Hai câu thơ như một lời nhắc, như một niềm tin, như một cái nhìn vào ngày sau tươi sáng. “Còn da lông mọc, còn chồi nảy cây”. Nghe thật vui khi chỉ một tín hiệu sống còn, thì sự sống sẽ còn.

Không hiểu sao, suốt bao nhiêu năm đến trường cùng sách vở, bao giờ trong tâm khảm tôi cũng vang lên những câu ca này. Cho dù sách giáo khoa có đưa vào chương trình chính khóa hay không, tôi vẫn thường đọc lên cùng bao lớp học trò, như một cách chuyện trò, như một lời nhắc nhủ, như một sự động viên nỗi khó khăn ở trong mỗi cá nhân con người về cách biết vượt qua. Những ngày này, lũ lụt vừa qua, bão giông đang tới, nhưng những đoàn xe đưa người đến với người, tay chìa níu lấy tay, nước mắt người này thấm qua vai người khác… con dân Việt trong hoạn nạn đã chia sẻ cùng nhau những ấm lạnh ngọt bùi.

Huế, mùa lụt tháng 10/2020
Đ.H
(TCSH381/11-2020)  



 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • PHAN THỊ THU QUỲ(Hưởng ứng cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”)

  • LÊ KHAI           Bút kýAnh đưa tôi một tờ giấy cuộn tròn và nói: Tuần qua tôi đi tìm mộ liệt sĩ ở Truồi (huyện Phú Lộc). Tìm một mộ mà phát hiện ra tám mộ. Buồn! Tôi làm bài thơ. Anh xem và chữa giúp. Cả đời tôi chưa quen làm thơ.  Anh chào tôi rồi vội vã về vì đang có việc cần.

  • HÀ KHÁNH LINH            Trích Hồi ký… Mùa xuân 1967, địch tăng cường đánh phá suốt ngày đêm, ngày một ác liệt hơn. Các trạm khách dọc tuyến đường 559 không ngày nào không bị đánh trúng hoặc B52 hoặc bom tọa độ, hoặc pháo tầm xa. Ngày nào cũng có thương vong. Có những đơn vị trên đường hành quân vào Nam chưa đến địa điểm tập kết đã bị đánh tơi tả, chỉ còn sót lại vài người. Các cơ quan đơn vị đóng chung quanh khu vực phần nhiều đã bị đánh trúng.

  • TUỆ GIẢI NGUYỄN MẠNH QUÝ                                        Tạp bútNhư nhân duyên, như định mệnh, cuộc đời tôi như thu hết vào trong một chung trà. Tuổi thơ đã qua, bây giờ và sẽ mãi mãi, cuộc đời tôi luôn vương vấn một hương trà. Tôi thường hay nói đùa cùng bằng hữu rằng sinh ra và lớn lên được ướp trong hương trà, tôi cũng chỉ mơ một ngày về thiên cổ được vẫy tiễn linh hồn bằng một chén trà ngon, được chôn theo cùng là một bộ ấm trà quý nhất và được vẫn cùng người “hồng nhan tri kỷ” đồng ẩm tương phùng ở thế giới bên kia!!!

  • TRẦN KIM HỒĐảo Cồn Cỏ là vọng gác tiền tiêu, là con mắt của Vĩnh Linh - khu Vĩnh Linh là tiền đồn của miền Bắc XHCN, là hậu phương trực tiếp của tiền tuyến lớn miền Nam; do đó đảo Cồn Cỏ có vị trí vô cùng quan trọng, mặc dù diện tích chỉ có 4km2. Mât Cồn Cỏ, miền Bắc XHCN trực tiếp bị uy hiếp, nhất là vào lúc nguỵ quyền Ngô Đình Diệm không ngớt hô hào lấp sông Bến Hải, Bắc tiến; đế quốc Mỹ từng trắng trợn tuyên bố biên giới Hoa kỳ kéo dài đến vĩ tuyến 17.

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNGHai cái máy lạnh hai cục trong căn phòng 40m2 của nhà hàng Hoa Chuối cộng với cả trận mưa chiều đột ngột tầm tã không làm dịu được sức nóng từ tấm thịnh tình của gần 50 cộng tác viên thân thuộc của tạp chí Sông Hương tại thủ đô Hà Nội.

  • TÔ VĨNH HÀTrong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, 60 năm qua là một chặng đường đặc biệt. Chưa bao giờ dân tộc ta phải đương đầu với nhiều thử thách đến như thế, phải chiến đấu và chiến thắng nhiều kẻ thù đến như thế. Pháp rồi Nhật, Tưởng và Anh; hết Mỹ đến Khơmer “đỏ”... Kẻ thù và đau khổ nhiều đến mức tưởng chừng như đất nước Việt Nam được tạo hoá sinh ra là để cho các loại kẻ thù nhòm ngó, tìm mọi cách thôn tính.

  • NGÔ MINHTừ tháng 7-1954, Hiệp định Giơnevơ ký kết cho đến cuối năm 1964 đôi bờ giới tuyến Hiền Lương lặng im tiếng súng, nhưng đây là 11 năm diễn ra cuộc đối đầu văn hóa nóng bỏng, quyết liệt nhất giữa ta và địch.

  • PHAN THỊ THU QUỲ Trên bờ Hương Giang êm đềm, có ngôi nhà nhỏ tôi được sinh ra ở đó. Hằng ngày tung tăng cắp sách đến trường Đồng Khánh, tôi cũng nhảy nhót trên bờ Hương Giang. Lớn lên tôi hoạt động nội thành thường đến hò hẹn bên cây phượng vỹ trước cửa Thượng Tứ, nơi đó là địa điểm giao nhận những “gói nhỏ”, để nhận công việc và để nhớ mật hiệu. Cho nên trên bờ Hương Giang tôi đã ngắm dòng sông thơ mộng với tôi gắn bó biết bao từ tuổi ấu thơ cho đến bước  vào đời.

  • NGUYỄN VĂN VINH                         Bút ký Thôn Hiền An, xã Vinh Hiền là một thẻo đất cát bạch sa cuối phá Tam Giang phía Bắc vào. Như một ốc đảo ba bề, bốn bên là nước, nếu không có đường 49B chạy dọc phá đến cùng đường, tận biển. Và mỗi ngày, hai chuyến xe đò chở khách cùng mấy chục chuyến đò ngang phá qua lại Lộc Bình đem chút xôn xao thị tứ, phố chợ về với thôn, xã thì Hiền An càng xa xôi heo hút.

  • TRẦN HOÀI                  Ghi chépThung lũng A Lưới chạy dài theo hướng Bắc Nam đến vài chục km. Đó là một thung lũng đẹp, là một vị trí quân sự chiến lược, là nơi giao tranh ác liệt giữa ta và địch trong cuộc kháng chiến vừa qua...

  • LÊ BÁ ĐẢNGBạn của tôi rất nhiều. Năm ba bạn mà tôi nhắc nhở ra đây phần nhiều là bác sĩ, kỹ sư, giáo sư còn nghệ sĩ thì chất cả đống.

  • NGUYỄN THẾ QUANGMùa hạ, trời Bát Tam Boong trong xanh. Những hàng cây thốt nốt lặng lẽ kiêu hãnh xòa những tán lá xanh che mát cả khu đồi. Trong căn nhà của sở chỉ huy Sư 179 quân đội Cămpuchia, trung tá Nguyễn Văn Du chuyên gia của bộ đội Việt Nam cởi thắt lưng ra treo khẩu K54 lên vách. Anh vui mừng trước khả năng chiến đấu ngày càng tốt của quân đội bạn. Trận đánh trả lực lượng quân đội Thái Lan bảo vệ sáu nghìn dân tị nạn ở chòm Rumthumây diễn ra nhanh chóng.

  • TỐ HỮU        Trích chương V, hồi ký Nhớ lại một thời

  • VÕ MẠNH LẬP            Ghi chépTrong những ngày tháng ba, hai lẻ sáu trời Hà Nội đẹp và dễ chịu. Cái nắng vàng phủ tràn thành phố, tôn màu của cây thêm xanh biếc, ngói trên các mái nhà như thắm thêm lên, đường phố đi lại thanh thoát và đặc biệt có chút se lạnh vào sáng sớm như sợi tơ vương của hơi thở cuối mùa đông còn lưu sót lại.

  • NGUYỄN QUANG HÀ                          Bút kýMã Yên là tên trên bản đồ của một ngọn núi, còn dân địa phương thì gọi đó là núi Yên Ngựa. Núi Yên Ngựa là một trong những ngọn núi ngoài cùng về phía Đông của dãy Trường Sơn.

  • NGUYỄN QUANG HÀ                         Bút kýNắng chiều vàng trải dài trên những hàng bia trắng như mơ, như kỳ ảo. Đi trong nghĩa trang tôi có cảm giác mình như đang ngỡ ngàng, có cái gì đó nghèn nghẹn nơi cổ khi hàng hàng những bia trắng dài kia không có một nét mực ghi tên. Đó là những tấm bia vô danh.

  • NGUYỄN TRI TÂMNgười kể chuyện phải lục tìm những tấm ảnh lưu niệm để nhớ chính xác hơn. Sau tấm ảnh đen trắng cỡ 18x24, tướng Hoàng Văn Thái kí tên và ghi rõ “Thân tặng đồng chí trung tá Lương Văn Chính, người chiến sĩ Điện Biên năm xưa, huyện đội trưởng huyện đội Điện Biên. Kỉ niệm ngày lên thăm Điện Biên 3-4-1984”.

  • TẤN HOÀIHưởng ứng cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí MinhĐêm đó, Bác nghỉ lại tại Cọt Mạ - một thị trấn nhỏ của Trung Quốc, thị trấn nhỏ như một bản miền núi miền nam Trung Quốc, có một cái chợ nhỏ, cách biên giới Việt Nam khoảng trên bốn cây số. Tất nhiên, đó là một cơ sở của cách mạng Trung quốc. Hôm sau, Bác về nước cùng với những đồng chí Việt Nam đi đón Bác trong đó có Dương Đại Lâm, Lê Quảng Ba, Bằng Giang. Những người này về sau trở thành cán bộ lãnh đạo của khu tự trị Việt Bắc. Bác về đúng vào tháng 2 năm 1941. Bác đã ghi trên một phiến đá trong hang Cốc Bó, nằm trong khu vực Pác Bó. Gia tài Bác chỉ có một chiếc va li cũ đan bằng mây, bên cạnh một chiếc máy đánh chữ mà Bác luôn luôn xách bằng tay.

  • HOÀNG QUỐC HẢI                        Bút kýVì sao khi Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ) được nước, cung điện nơi thành Hoa Lư các vua Đinh, vua Lê dựng như “điện Bách Bao thiên tuế, cột điện dát vàng, dát bạc làm nơi coi chầu, bên đông là điện Phong Lưu, bên tây là điện Cực Lạc, rồi làm lầu Đại Vân, dựng điện Trường Xuân làm nơi vua ngủ, bên cạnh điện Trường Xuân lại dựng điện Long Lộc, lợp bằng ngói bạc...”, lâu đài điện các như thế, tưởng đã đến cùng xa cực xỉ.