Có những ngày Huế lại khai sinh(1)

14:43 02/02/2024


LÊ THANH NGA

Nhà thơ, Tiến sĩ Lý luận phê bình văn học Lê Thanh Nga - Thành viên Ban Chung khảo đánh giá chung các tác phẩm dự thi

1. Cuộc thi “Thơ Huế 2023” trên Tạp chí Sông Hương đã khép lại với 101 tác phẩm của 33 tác giả được đề cử vào vòng chung khảo. 101 là một con số không hề nhỏ, lại càng không hề nhỏ với vòng chung khảo. Những con số ấy nói rằng, đôi khi mối lo về việc con người quay lưng với văn chương có vẻ hơi thừa. Tất nhiên, ở đây rất cần tính đến sức thu hút, uy tín của nhà tổ chức và của giải.

2. Dường như có một Huế rất yêu đang được đánh thức. Một Huế trầm tư trong hiện tại với tư cách di sản, về cả vật chất và tinh thần, cả vật thể và phi vật thể; có thứ vật thể trải mấy trăm năm còn hiện hữu, trở thành biểu tượng của xứ sở thần kinh, thành niềm tự hào của người dân Huế. Đấy là những Hoàng thành, Ngọ Môn, những cửa Hiển Nhơn, thần công, cửu đỉnh… “Trò chơi” vương quyền đến một lúc nào đó sẽ cô đặc thành ký ức văn hóa, đấy là một thú vị! Tôi nhớ Nguyễn Huy Thiệp kết thúc Vàng lửa bằng một nhận xét về triều Nguyễn, đầy thách thức và gợi mở: “Đây là triều đại để lại nhiều lăng”. Quả thật, lăng tẩm, thành quách, đền đài góp một phần rất cốt lõi làm nên giá trị văn hóa Huế. Và chúng đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận của thi ca. Vô tận, bởi mỗi cá nhân thi sĩ, với tinh thần của thế hệ họ, sẽ cấp thêm cho chúng những ý nghĩa mới, những giá trị mới!

Đương nhiên Thu Bồn đã viết rất hay về Huế - một bài thơ mà tôi không dám chắc lắm rằng đời sau có bài nào vượt qua được hay không ở cái nhìn xót xa, đắm đuối về bản sắc Huế với chén ngọc, đền đài, lăng tẩm, con người… Nhưng điều đó không cấm cản được sự bổ sung thêm các lớp ý nghĩa cho lăng tẩm, đền đài… với tư cách là những công trình nghệ thuật được xây đắp bằng rất nhiều mồ hôi, nước mắt, máu của các nghệ sĩ, nghệ nhân và thợ mạc. Ta có thể thấy ở đây, trong cuộc thi này, những Hoàng thành, Hộ thành ngập chìm trong những cơn mưa; một bình phong phủ đệ văng vẳng đâu đó phía sau tiếng chim đập cánh; một chén ngọc ghìm hơi tiếng thở dài; những cây thông trên đàn Nam Giao mải mê khâu nắng, khâu gió… Đó là những di sản đã quen thuộc với nhiều người, kể cả những người chưa một lần đến Huế (vì người ta đã nhắc nhiều về chúng trong các sách vở, trên báo đài, mạng xã hội…). Nhưng khi vào thơ, chúng vẫn ít nhiều mang đến cho người đọc cảm giác rằng chúng không phải những gì đã qua, mà là thứ vẫn tồn tại, vẫn sống.

3. Huế đẹp ở những di sản văn hóa, và Huế đẹp ở những sắc màu thiên nhiên. Hình như tạo hóa đặc biệt ban tặng Huế một thứ thiên nhiên khá cân bằng, hài hòa và ít cực đoan: núi cao vừa đủ để không thách thức khả năng chinh phục của con người; độ nghiêng địa hình vừa đủ để “con sông dùng dằng con sông không chảy” (thơ Thu Bồn). Những sắc màu thiên nhiên trong các tác phẩm dự thi lần này vẫn cơ bản giữ nguyên nét đẹp ấy, chỉ là có những điểm mới hơn về xúc cảm, về cách đánh giá và thể hiện. Một Huế sâu lắng, thâm trầm và kiên cường, cả lam lũ nữa, gửi gắm trong thông xanh núi Ngự, trong những tán bồ đề và trong vị mặn của đầm phá, trong “những ngọn đồi mây trắng lang thang” (riêng hình ảnh mây trắng lang thang tự nó đã nói được cái lãng mạn rong chơi vời vợi). Viết về thiên nhiên Huế, có những câu thơ thật sâu:

Gió vỗ sông Hương ngàn lớp dậy
Gió dìu An Cựu, nép Đông Ba
Gió ướp trên mình hương xứ Huế
Gom lại cho gần nỗi nhớ xa
           
(Tà áo Huế - Phong Lan)

Mùa xuân nước lên hương trầm
Tháng sáu mắt ngọc phỉ thúy
           
(Mở ra cánh lụa xanh dưới mặt trời - Bạch Diệp)

Nhưng ấn tượng hơn về thiên nhiên xứ Huế, trong các tác phẩm lọt vào chung khảo cuộc thi này, vẫn là những cơn mưa, những dòng sông mà sông Hương là tâm điểm. Huế đương nhiên là xứ sở của mưa và thi nhân xưa nay đã không ít người nhanh tay chụp lấy những khoảnh khắc mưa, những mùa mưa. Hai câu thơ của Tố Hữu trong Nước non ngàn dặm, bằng kĩ xảo ngôn từ, có lẽ đã thể hiện được tận cùng trạng thái của mưa Huế:

Nỗi niềm chi rứa Huế ơi
Mà mưa xối xả trắng trời Thừa Thiên”

Tôi hình dung trước mắt mình là những trang giấy sũng nước bởi độ phủ của những sông ngòi đầm phá, những cơn mưa. Mưa và nước kể cả trong sự xuất hiện của không ít loài động, thực vật, là những cánh cò cánh diệc, những tôm cá, sen, súng hay lục bình. Mưa và nước, cứ thế đi từ định mệnh của Huế đến định mệnh của thi ca về Huế. Đó là những “Sông thơm dài vằng vặc hồn quê” (Huế, những trăm năm… - Từ Dạ Thảo); là “Mưa như sương trắng trời Thương Bạc/ Từ Vỹ Dạ mưa ngược Kim Long/ Mưa Ngự Bình vuốt mặt Hương giang” (Mưa Huế - Từ Dạ Thảo). Cả ba bài thơ của Từ Dạ Thảo đều nói đến mưa, mưa trùng trùng điệp điệp. Điều đó lạ mà không lạ. Tuyệt đại đa số các tác giả khác ở mức độ khác nhau đều nói đến mưa, đến sông: là sông Hương “Mùa xuân nước lên hương trầm/ tháng sáu mắt ngọc phỉ thúy” (Mở ra cánh lụa xanh dưới mặt trời - Bạch Diệp); là sông Hương cho núi Ngự soi mình (Phía nào thương Huế - Hoàng Thị Hiền); là chiếc bình Hương giang để lữ khách cắm chiếc bóng mình (Đã từng với Huế - Hoàng Thụy Anh); là một “bến đò lặng lẽ đơm hương” (Có một dòng thơm - Hoàng Thụy Anh); là “Đêm miên du sông trăng ai hát” (Đêm biếc dòng Gia Hội - Huỳnh Thị Quỳnh Nga)…

Việt Nam là xứ sở của vài nghìn con sông lớn nhỏ rải đều trên cả ba miền. Người ta sống lệ thuộc vào sông cũng như lệ thuộc thiên nhiên mấy nghìn năm lẻ. Sông vì thế cất trong mình nó, không chỉ ý nghĩa sinh thái, mà còn là nhân sinh, là văn hóa. Như sông Hồng, sông Lam, sông Mã, sông Hàn, sông Hậu, sông Tiền…, sông Hương lắng trong mình những giá trị ấy của một vùng, một xứ. Dĩ nhiên khó ai có thể viết hay và đủ về sông Hương bằng những cảm nhận tinh tế, những suy tư sâu xa như Hoàng Phủ Ngọc Tường trong hành trình tìm người đặt tên cho dòng sông. Nhưng không bởi Hoàng Phủ Ngọc Tường mà sông Hương cạn kiệt ý nghĩa. Nó như một văn bản nghệ thuật mà vẫn được bồi đắp trong sự “đọc” của ngày hôm nay. Từ Dạ Thảo nhìn thấy ở sông Hương từng gương mặt con người xứ Huế; Hoàng Đăng Khoa gặp trên sông Hương những nắng dậy thì; Nguyễn Thị Anh Đào bắt gặp thứ ánh sáng đủ để chiều hạ huyền lấy đi vài ba nỗi nhớ; Bạch Diệp nhìn sông Hương trong tương cảm với nắng trên cầu Mirabeau, nhận ra tính vô hạn của sông Hương trong một cơn mưa bất chợt đẫm chiều khi “Trường Tiền vén mưa” với “những cây dù nở bung hoa nấm”… Rồi thế, mỗi người đến với sông Hương, và neo mình ở đó, mãi mãi, bằng những câu thơ nhiều xúc động. Họ thấy sông Hương là nơi núi Ngự soi mình, là nơi cất giữ tinh thần Huế, là bể dâu thế sự và trầm luân kiếp người… Sông Hương cũng là nơi tựa nương, hóa giải, sẻ chia cho những tâm hồn đa đoan:

Dòng Hương xanh biếc giấc mơ
Em có hay đêm đắm chìm chén ngọc
Đêm nồng nàn hãy tựa vào thơ
           
(Đêm biếc dòng Gia Hội - Huỳnh Thị Quỳnh Nga)

Giọt chuông đẫm dòng Hương đêm niệm thoại
Bàn tay kỹ nữ buông trăng Chén ngọc nổi chìm phận hạc
           
(Giọt chuông xanh - Huỳnh Thị Quỳnh Nga)

Có một Huế rất đẹp, rất thơ như trăm năm vẫn thế. Nhưng còn có một Huế với thiên nhiên khắc nghiệt. Và đây có lẽ là một cái nhìn về một Huế khác. Không có nhiều tác phẩm nhắc đến điều này nhưng tôi vẫn muốn coi nó là một điểm nhấn (ở đây không bàn về chất lượng của sự thể hiện). Giữa cả trăm tác phẩm mải mê tìm vẻ đẹp mộng, thơ, cổ kính, trầm u của Huế, có vài tác phẩm khái quát về một Huế khắc nghiệt, tai ương. Và trong đó là cay đắng phận người:

Cuống cuồng giấc bão
Cố níu cố tìm
Những gì dành dụm đã trôi
Hơi hướm người thân đã mất
Trên con sông giãy nảy nỗi buồn ăn khuyết
Dẫu chỉ đâm sâu thêm vào nỗi đau
Của tận cùng mất mát

Chồi non mở mắt
Đã học bài chống bão
           
(Phố bão - Nguyễn Thiền Nghi)

Những chiều rơi vụn xa xôi
người cúi mặt soi bóng mình đã cũ
nhớ mẹ đò đưa khách trú
người Bắc người Nam biền biệt xứ nào
mẹ vội và những hạt ca dao
bao năm nhớ một mùi cơm quá lửa
           
(Sông ly hương - Vân Phi)


4. Văn chương trước hết viết về con người. Thơ viết về xứ Huế, dù có là miêu tả lăng tẩm, đền đài, núi Ngự, sông Hương… thì trên hết vẫn là viết cho ra con người xứ Huế. Ở đây, con người mà ta gặp, có lẽ trước hết vẫn là con người lãng mạn, bay bổng, thậm chí là “hoang đàng” như Hoàng Đăng Khoa đã viết. Vẻ lãng mạn ấy không chỉ thể hiện trong tà áo dài hay tiếng “dạ” thiếu nữ bất ngờ hút hết hồn vía của một khách phương xa, mà còn, và đặc sắc ở những suy tư bay bổng, những mộng ước linh tinh đôi khi có vẻ viển vông, phù phiếm, nhưng thực chất đằm thắm và đắm đuối:

Tôi treo giấc mơ vào tiếng chuông Thiên Mụ
Thấy mình rơi trong nỗi nhớ Đông Ba
           
(Huế, những trăm năm… - Từ Dạ Thảo)

Ngày Huế còn thương trải chỉ màu khung cửi
Đàn chim đã trở về đậu lên những giấc mơ
           
(A Lưới thương nhau trong tấm dèng - Hoàng Thị Hiền)

Đêm chảy ngược
Nghiêng vầng trăng rót cạn
Quán vắng thưa người anh vấp váp cơn say
    
(Huế, em, rượu và thơ - Huỳnh Thúy Kiều)

Người đọc còn có thể thấy một phong cách con người Huế, một tính cách con người Huế ở nỗi trầm mặc và sâu xa, ở sự thơ thới và thong dong, ở một hào hùng một bi tráng:

Huế không cần điểm thêm giọt buồn lên mắt thì tâm hồn đã rất sâu
Như sông Hương nhân từ nén chặt vào đáy lòng bao nhiêu giông bão
                       
(Huế - Hoàng Đăng Khoa)

Thuyền thiên nga rùng mình quẫy phải đuôi tiếng chuông Thiên Mụ
Bác xích lô đậy nón thơ thới ngủ dưới tán bồ đề
                       
(Huế - Hoàng Đăng Khoa)

Đêm nhìn về Chân Mây
Nghe rình rập bước hành quân chiến thuyền cổ lũy
                       
(Chân Mây - Vân Phi)

Giặc đã trong nhà, muốn cầu hòa là chuốc nhục non sông
Người dựng cờ Cần Vương nơi núi sâu, đèo hiểm
Chiếu ban,
chọn con đường quyết chiến
vọng một Hàm Nghi
Tân Sở chiều tà…
           
(Vọng một Hàm Nghi - Nguyễn Hữu Quý)

Và một con người Huế lam lũ, đắng cay:

Đêm trên chuyến tàu nhìn về Chân Mây
Tôi nghe bước chân người thợ xây từ tiền kiếp
Gió đắp lên những khuôn mặt người xứ Huế
Thổi mòn những vân chỉ thời gian
           
(Chân Mây - Vân Phi)

Tác giả đã chạm vào một ký ức rất Huế. Đó là sự thực về đời sống cực nhọc của một bộ phận người dân Huế. Ta đã chứng kiến không ít trong số họ làm những công việc nặng nhọc và nhiều khi nguy hiểm là thợ nề, như một chấp nhận và như một theo đuổi đam mê. Thợ nề xứ Huế nổi tiếng tay nghề cao và thường tỏa đi khắp nước. Nhưng đây cũng là niềm kiêu hãnh. Huế là cố đô, xưa kia, nhu cầu xây dựng thành quách, phủ đệ, đền đài, lăng tẩm của một trung tâm hành chính đứng đầu cả nước với sự tập hợp đông đảo tầng lớp vương công quý tộc đã sản sinh những nghệ sĩ, nghệ nhân trác tuyệt. Những công việc liên quan đến kiến trúc, xây dựng vì vậy đã trở thành, không chỉ là công việc mưu sinh, mà nhiều khi là nghệ thuật, là lẽ sống và đó là văn hóa. Không phải tự nhiên mà hàng năm, cánh thợ nề Huế luôn nhớ và mở tiệc tưng bừng vào ngày giỗ tổ nghề, dù họ mưu sinh ở bất cứ đâu.

Vẻ đẹp của con người, và sau đó, dĩ nhiên là văn hóa, thể hiện trong những cái tôi độc đáo và thi vị của người thơ. Huế không chỉ đẹp ở tự mình, mà còn, và quan trọng hơn là đẹp từ cái nhìn của chủ thể trữ tình, của cái tôi thi sĩ:

mẹ vội và những hạt ca dao
bao năm nhớ một mùi cơm quá lửa
           
(Sông ly hương - Vân Phi)

Có vẻ như tuyệt đại đa số các tác phẩm dự thi đều cố gắng tiếp cận Huế ở những vẻ đẹp truyền thống, ở “thiên tính nữ”2 truyền đời của Huế. Đấy là vẻ đẹp của sự cam chịu, thương khó và nết hạnh, như câu thơ trên đã thể hiện, và vẻ đẹp của tiếng dịu dàng dạ thưa:

Nhớ bóng mẹ tảo tần rơm rạ
Tiếng “dạ” chồng ngọt từ thuở tóc mai
           
(Huế, những trăm năm… - Từ Dạ Thảo)

Rồi em sẽ kể con nghe
Về chuyến tàu rước dâu lúc năm giờ chiều
Trôi dạt một mùa mưa xa xôi
Người con gái cúi đầu lạy dòng sông mẹ
           
(Mở ra đôi cánh lụa xanh dưới mặt trời - Bạch Diệp)

Một bạn gái Huế của tôi nói rằng ngay từ thuở lên năm, bạn ấy đã được mạ dạy dỗ cách bước đi như thế nào cho ra dáng người con gái Huế. Có thể đấy chỉ là một lời nói quá. Nhưng nói quá được như thế thì bản thân ý nghĩ cũng đã đẹp biết bao. Đấy là nết hạnh cả xứ sở mà tôi hình dung, mỗi thiếu nữ đều mang trong mình ít nhiều phong vị Tôn nữ, đôi khi, dù chỉ là một xíu thôi.

5. Đã có một Huế rất yêu, rất thơ với nhiều góc nhìn khác nhau, và cuộc thi đã dựng được một diện mạo Huế vô cùng đáng sống, một Huế đang rất sống, kể cả cái sống tự ngàn xưa: sông Hương và núi Ngự; cầu Trường Tiền và phá Tam Giang; lăng tẩm và đền đài; ly trà và khúc Nam Ai; hoa sen hồng và bông sứ trắng… Một Huế đặc Huế, không lẫn với xứ khác. Nhưng có thể còn một Huế khác chưa được khai thác? Hình như các tác giả đã trót dồn tâm huyết cho bờ Bắc mà chưa có nhiều rung động với bờ Nam, nơi có một Huế đang ngày càng sôi động, hiện đại, tươi mới. Quá đắm đuối với truyền thống đôi khi chưa hẳn đã có lợi cho trường tồn. Vĩnh cửu nhiều khi được tạo bởi vận động và biến đổi.

6. Có cảm giác các tác giả có tác phẩm dự thi lần này hoặc cùng thế hệ hoặc, gần độ tuổi - từ trẻ đến trung niên. Nói vậy bởi tôi thấy giữa họ có những điểm gần gũi, thậm chí là gặp gỡ trong cách tiếp cận, khám phá; trong giá trị của cái tôi trữ tình và cả cách thể hiện những suy tư về Huế. Họ trẻ ở những điều mới mẻ, nhất là trong lối viết nhìn chung mang màu sắc hiện đại, trong mạch tự sự và chất suy tưởng. Tuy nhiên, cũng cần chú ý, bất cứ một bài thơ hay nào, tự nó phải đạt đến độ hài hòa, cân bằng thông tin giao tiếp với thông tin thẩm mỹ.

Ninh Bình - Hà Nội, tháng 12/2023 - tháng 1/2024

L.T.N
(TCSH420/02-2024)

---------------------
1 Mượn câu thơ của Khét.
2 Chữ dùng của Hoàng Ngọc Hiến để định danh một đặc điểm trong truyện của Nguyễn Huy Thiệp.

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • MAI VĂN HOAN         (Giới thiệu các tác giả thuộc chi hội nhà văn Việt Nam tại Huế)Ngô Minh là một trong những nhà văn Việt Nam ở Huế được Đài truyền hình Cáp Việt Nam chọn giới thiệu tới 45 phút trong chương trình “Người của công chúng”. Tôi cũng được mời nói đôi lời về anh. Với tôi, Ngô Minh là người làm việc “tới số” và chơi cũng... “tới số”!

  • PHẠM XUÂN NGUYÊNCùng một kiếp bên trời lận đận                  (Bạch Cư Dị - Tỳ bà hành)Nhà văn Bùi Ngọc Tấn vừa cho ra mắt tác phẩm Rừng xưa xanh lá (Mười chân dung văn nghệ sĩ) tại Nhà xuất bản Hải Phòng (1/2003).

  • TÔ VĨNH HÀNhững trang viết sau cùng của một con người luôn luôn là điều thiêng liêng và không bao giờ hết bí ẩn. Vì sao lại dùng từ ấy chứ không phải là chữ kia; đề cập đến cái này chứ không phải là cái khác..? Rất nhiều câu hỏi sẽ đến với người đọc khi trước mắt ta là những ý tưởng hiện hữu sau cùng của một đời người - đặc biệt ở con người vĩ đại như Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh là cái tên mà mỗi người Việt lúc đọc hay nói, không chỉ diễn đạt một quan niệm gần như vô hạn của nhận thức, mà hơn nhiều thế nữa - là âm sắc tuyệt vời của sự kết tụ những tinh hoa quý giá nhất của trái tim mình.

  • NGUYỄN TỐNGQuê hương đất nước và con người luôn có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau trong suốt chiều dày của lịch sử dựng nước và giữ nước. Nó tự nhiên chan hoà đến mức như cá bơi quẫy giữa đại dương, chim tung cánh vô tư giữa bầu trời bát ngát. Đến lúc nào đó, khi con người rơi vào cảnh cá chậu chim lồng, tình cảm, ý thức về đất nước thiêng liêng mới trở nên ám ảnh day dứt.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ           (Đọc “Thân Trọng Một – con người huyền thoại” của Nguyễn Quang Hà)Đã từ lâu, tên tuổi anh hùng Thân Trọng Một trở nên thân quen với mọi người, nhất là với quân dân Thừa Thiên Huế; những “sự tích” về ông đã thành truyện “truyền kỳ” trong dân chúng và đã được giới thiệu trên nhiều sách báo. Tuy vậy, với “THÂN TRỌNG MỘT – CON NGƯỜI HUYỀN THOẠI”, lần đầu tiên, chân dung và những chiến công của ông đã được tái hiện một cách đầy đủ và sinh động nhất.

  • Nhà văn Nguyễn Quang Hà tâm sự với tôi rằng anh có hai món nợ rất lớn mà chắc đến khi nhắm mắt xuôi tay cũng không thể nào trả xong. Hai món nợ mà anh đang gánh trên đôi vai của mình là món nợ đối với nhân dân và món nợ đối với đồng đội. Gần bốn mươi năm cầm bút, anh đã viết 9 tập tiểu thuyết; 7 tập truyện ngắn, ký, truyện ký; 2 tập thơ cùng với hàng trăm bài báo cũng chỉ mong sao trả được hai món nợ ấy.

  • XUÂN CANGNhờ cuốn hồi ký nhỏ Ngày ấy Trường Sơn (Nxb Hội Nhà văn - Hà Nội - 2000) của Nguyễn Khoa Như Ý- tên khai sinh của Hà Khánh Linh, bạn đọc được biết đây là một nhà văn nữ có khí chất không bình thường. Một người con gái mảnh dẻ, nhưng có chí, mơ mộng, ham hành động, vì nghĩa lớn mà dấn thân vào nơi nguy hiểm.

  • Sau Vị giáo sư và ẩn sĩ đường, Ba lần đến nước Mỹ, trong năm 2002, GS. Hà Minh Đức tiếp tục ra mắt bạn đọc tác phẩm Tản mạn đầu ô. Vậy là trong khoảng 5 năm, bên cạnh một khối lượng lớn những tác phẩm nghiên cứu, lý luận, phê bình, ông đã sáng tác 3 tập thơ và 3 tập bút ký. Đó là những con số mang nhiều ý nghĩa thể hiện sự "đa năng" của một đời văn tưởng đã yên vị với nhiều danh hiệu cao quý và hơn 30 tập sách nghiên cứu, lý luận, phê bình. Tản mạn đầu ô ra đời được dư luận chú ý, quan tâm. Sau đây là cuộc trao đổi giữa PGS. TS Lý Hoài Thu với GS. Hà Minh Đức xung quanh tập sách này.

  • HUỲNH HẠ NGUYÊN         (Đọc tập thơ "Khúc đêm" của Châu Thu Hà - Nxb Thuận Hoá - 11/2002)...Thơ Châu Thu Hà mang đậm nữ tính. Khi trái tim biết cười, hay khi giàn giụa nước mắt, ta bỗng thấy quý sao những phút sống chân thành với cuộc đời, với mọi người. Châu Thu Hà không để trái tim mình tuột xuống phía bên kia triền dốc, chị cố bước tới và neo lại, để thấy mình được xẻ chia, được yêu chiều, xoa dịu...

  • LÊ MỸ Ý (L.M.Y):  Thưa nhà thơ, là một người có thể tạm gọi là thuộc thế hệ đi trước nhưng lại luôn "gây sốc" bằng những tác phẩm tìm tòi mới, chắc hẳn ông có quan tâm nhiều đến thế hệ thơ trẻ? Có thể có một nhận xét chung về thơ trẻ hiện nay chăng?NHÀ THƠ HOÀNG HƯNG (H.H): Tất nhiên là tôi rất quan tâm. Nhận xét chung của tôi về thơ trẻ bây giờ là đa số vẫn mang tính phong trào. Có thể nói là những người làm thơ trẻ vẫn đi theo một vết mòn của thế hệ trước, chưa thấy rõ những bứt phá, chỉ nổi lên một số tác giả theo cách lẻ tẻ.

  • Tại sao cô chỉ làm thơ tự do?- Trước hết, bởi tôi thích tự do. Tự do ở đây, được hiểu là: nói, làm, dám mơ ước và tham vọng tất cả những gì mình muốn, không bị tác động và chi phối bởi ai, bởi bất cứ điều gì.

  • NGUYỄN THỤY KHA Đã là lạ tên một tác phẩm khí nhạc mang tực đề "Eo lưng" của nữ nhạc sĩ Kim Ngọc. Lại thu thú khi đọc tập thơ "Nằm nghiêng" của nữ thi sĩ Phan Huyền Thư. Một thế kỷ giải phóng của Việt Nam thật đáng kính ngạc.Cái cách giải phóng mình, phái yếu trong đó có mình của Phan Huyền Thư là sự độ lượng với cũ kỹ, là mỉa mai sự nửa vời, là quyết liệt lặng lẽ vươn tới cách tân theo một thế của “Nằm nghiêng”.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠOCòn nhớ mùa Huế mưa 1992, Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đến nhà tôi chơi, mang theo bản thảo đánh máy tập thơ đầu tay của một tác giả mới 20 tuổi có tên là Văn Cầm Hải. Một cái tên lạ mà tôi chưa nghe bao giờ. Những bài thơ của anh cũng chưa hề xuất hiện trên mặt báo. Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đều nói rằng; "Thơ tay này lạ lắm. Ông xem thử".

  • NGUYỄN QUANG HÀNgồi đọc NGÀN NĂM SAU mà như đang ngồi nói chuyện tay đôi với Nguyễn Trọng Bính. Giọng thơ anh cũng cứ chân chất, yêu quê hương và say đời như chính con người anh. Từ thời chiến tranh, chúng tôi đã ở trong rừng với nhau. Cứ ngồi với nhau là bộc bạch hết. Một lá thư riêng, một rung động mới, chúng tôi cũng chia sẻ với nhau.

  • PHAN THÀNH MINHĐó cũng là tựa đề tập thơ rất dễ thương của Trần Tịnh Yên - nhà thơ của đất kinh kỳ thơ mộng thuở nào - thú thật  là tôi đã vô cùng hạnh phúc khi nhận được tập thơ này do chính  tác giả gởi tặng, dễ thương ở chỗ khổ giấy nhỏ nhắn, trình bày đẹp trang nhã, sách 80 trang với 46 bài thơ cũng mỏng mảnh như thế nhưng nhìn rất thơ, càng thơ hơn nữa khi chính tác giả tự viết lời phi lộ cho mình, tôi rất hợp với anh ở điểm này bởi lẽ chẳng ai có thể thay thế cho mình bằng mình để nói hộ những gì mình muốn nói...:...năm xưa qua ngõ sân đìnhcó người nhặt được mối tình ai rơi

  • NAM NGỌC            (Về tập truyện ngắn mới nhất của nhà văn Võ Thị Xuân Hà do Công ty Truyền thông Hà Thế liên kết NXB Phụ nữ xuất bản và phát hành quý I năm 2009)Tập truyện gồm 14 truyện  ngắn, với những mô típ khác nhau nhưng cùng chung gam màu thấm đẫm chất liệu hiện thực. Tất cả đã tạo nên một chỉnh thể thống nhất mà ở đó các nhân vật dù xấu dù tốt cũng đều hướng tới cái đẹp, cái nhân bản của con người. Cách viết truyện lạ cùng với những chi tiết, tình tiết được lắp ghép một cách khéo léo, Võ Thị Xuân Hà đã một lần nữa gây ngạc nhiên cho người đọc bằng bút pháp ẩn không gian đa chiều của mình.

  • BÍCH THUHơn một thập niên trước đây, với hai truyện ngắn Hồi ức của một binh nhì và Vết thương lòng, Nguyễn Thế Tường đã đoạt giải cao trong cuộc thi truyện ngắn do Tạp chí Văn nghệ quân đội tổ chức năm 1992 - 1994. Tôi còn nhớ một trong số các nhà phê bình đã thành danh của nhà số 4 Lý Nam Đế không kìm được cảm xúc của mình với chùm truyện dự thi của Nguyễn Thế Tường lúc ấy đã thốt lên: “Tôi thích truyện ngắn Nguyễn Thế Tường”. Từ đó đến nay, Nguyễn Thế Tường vẫn miệt mài viết và lặng lẽ ra sách. Người đàn bà không hoá đá là lần ra mắt thứ năm của anh.

  • HOÀNG VŨ THUẬT                (Đọc “Trăng đợi trước thềm”, thơ Hải Bằng, NXB Thuận Hoá - 1987)Đổi mới là trách nhiệm vừa là bổn phận đang diễn ra sôi động trong đời sống văn học hôm nay. Nhưng ranh giới giữa cũ và mới không dễ dàng phân định khi đánh giá một tác phẩm văn chương nghệ thuật.

  • ĐINH NAM KHƯƠNG               (Nhân đọc “ru em ru tôi” Thơ Trương Vĩnh Tuấn NXB: Hội nhà văn - 2003)Có một nhà thơ nổi danh thi sĩ, làm “quan” khá to ở báo văn nghệ. Nhưng chẳng bao giờ thấy ông vỗ ngực, ngạo mạn nói lời: “ta là quan đây” mà ông luôn dân giã tự gọi mình là hắn, xưng hô với bạn bè là mày tao:                          “...Hình như hắn là nhà quê                          Hình như hắn từ quê ra...”                                                                (Gốc)

  • NGÔ MINHKhông thể đếm là tập thơ đầu tay của cây bút nữ Nguyễn Thị Thái người Huế, sống ở thành phố Buôn Ma Thuột vừa được NXB Thuận Hóa ấn hành. Tôi đã đọc một mạch hết tập thơ với tâm trạng phấn khích. Tập thơ có nhiều bài thơ hay, có nhiều câu thơ và thi ảnh lạ làm phấn chấn người đọc.