Có một nhà văn hoá ẩm thực Huế

15:38 27/08/2008
NGUYỄN VĂN HOA           Tôi đã đọc sách Ăn chơi xứ Huế của nhà thơ Ngô Minh (*) một mạch như bị thôi miên. 247 trang sách với 36 bài bút ký viết về triết lý ẩm thực Huế, về các món ăn Huế như tiệc bánh, cơm muối, mè xửng, tôm chua, chè Huế, bánh canh, bún gánh, nem lụi, hôvilô (hột vịt lộn), bánh chưng, bánh khoái, cơm chay, chè bắp, món vả trộn, cháo lòng, rượu Minh Mạng Thang...

Và các thú chơi của người Cố Đô như thưởng trăng nguyên tiêu trên núi Ngự, thả đèn trên sông Hương, chợ chơi Tết, ca Huế salon, vườn tượng bên sông Hương, những con  giáp của Hải Bằng, trò chơi điêu khắc của Điềm Phùng Thị v.v.. dù tác giả không sắp xếp mà bố cục môt cách ngẫu hứng nhưng rất lôgíc và cuốn hút. Ngô Minh đã thổi hồn thơ của mình vào từng trang, từng bài viết!
Phải nói rằng tác giả có vốn sống rất phong phú và sâu sắc, rất am tường về văn hoá Huế, con người Huế. Ngô Minh rất chí lý khi đưa ra cảm nhận: “Món ngon xứ Huế là món ngon Chăm, món ngon dân gian Huế và món ngon cả nước do giao lưu, hoà quyện với linh khí đất Thuận Hoá mà thành...” hay: “Chơi nấu ăn ở Huế có lẽ là “sự chơi hơn cả”...Để có những bài viết hấp dẫn và phong phú như vậy, tác giả đã dày công nghiên cứu các tác phẩm dạy nấu ăn của Hoàng Thị Kim Cúc, người khơi nguồn cho bài thơ nổi tiếng Đây thôn Vĩ Dạ của thi sĩ họ Hàn, sách dạy nấu ăn bằng thơ Thực phổ bách thiên (trăm món ăn phổ biến) của bà Trương Thị Bích, con dâu của thi sĩ Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, rồi cần cù ghi chép, hỏi chuyện tỉ mỉ các bà các mệ bán quán, nấu món ăn Huế, rồi từ đó đưa ra những nhận xét rất tinh tế, rất thơ. Ví dụ khi uống rượu Minh Mạng Thang, Ngô Minh viết: “Minh Mạng Thang ngon và mạnh. Uống vài chén đã nghe lòng lâng lâng, lại muốn làm chuyện lớn...” Hay viết về ngọn đèn Hoa kỳ của người bán hột vịt lộn đêm ở Huế: “Ngọn đèn dầu “hôvilô” mỗi đêm lại được thắp lên như tín hiệu thân thương của cuộc sống... Nguồn sáng ấy đã trở thành kỷ niệm khuất chìm trong mỗi đời người, khi nhắc đến, nhớ đến lại cháy lung linh tâm tưởng...”
Cuốn sách còn có nhiều chi tiết thú vị như Bà Từ Cung, mẹ vua Bảo Đại, xuất thân là cô gái xinh đẹp bán cháo bò ở làng Mỹ Lợi; hay Minh Mạng xây riêng Thượng Thiện đường với 50 đầu bếp mỗi người phụ trách một món, thái giám chuyển thức ăn từ bếp vào cung, còn dâng thức ăn cho vua là các thị nữ..., còn vua Khải Định thì không thích phụ nữ, nên trong bữa ăn của vua không có mỹ nữ cung tần nào dám lai vãng... Cơm vua chỉ có vua ăn một mình, nhưng đến thời vua Duy Tân, tục lệ nghiêm ngặt đó của riều Nguyễn bắt đầu bị xóa bỏ. Vua cho phép chánh phi Mai Thị Vàng được ngồi cùng mâm. Ông dẹp bỏ tục lệ vua ăn 50 món một bữa, mà chỉ thích ăn cơm và cá bống thệ kho.v.v...
Sách Ăn chơi xứ Huế đã bao quát được sắc phong vị các món ăn xứ Huế. Tuy nhiên trong “Lời giới thiệu” Nguyễn Khoa Như Ý (nhà văn Hà Khánh Linh) có nhận xét rất đúng rằng: “Còn những món ăn cung đình xưa, nay vẫn còn lưu lại trong các gia đình Hoàng phái, quan lại, trí thức cũ của Huế thì ít được nói đến”. Cũng dễ thông cảm với tác giả vì những món ăn Huế đang phổ biến thì dễ được thừa nhận. Theo thiển ý của tôi, việc chia cuốn sách thành hai phần "ăn" và "chơi" có thể không cần thiết vì nếu không chia mà cứ in liên tục các bài thì giá trị của cuốn sách không hề giảm đi.
Gấp sách Ăn chơi xứ Huế lại, tôi cứ miên man nghĩ đến một Ngô Minh đam mê tài hoa trong thơ, một Ngô Minh Khôi tâm huyết và nhạy cảm trong báo chí, lại một Ngô Minh nhà văn hoá ẩm thực Huế!. Tôi hy vọng rằng nếu sau khi đọc sách, để các độc giả bỏ phiếu tín nhiệm, có thể mọi người sẽ không khắt khe xếp Ngô Minh vào sau đội ngũ các nhà ẩm thực nổi tiếng của nước ta như Tản Đà, Vũ Bằng, Thạch Lam, Nguyễn Tuân, Băng Sơn.!
Thật thú vị khi đọc Ăn chơi xứ Huế của Ngô Minh.
N.V.H
(nguồn: TCSH số 160 - 06 - 2002)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN TRỌNG TẠOCó người làm thơ dễ dàng như suối nguồn tuôn chảy không bao giờ vơi cạn. Có người làm thơ khó khăn như đàn bà vượt cạn trong cơn đau sinh nở. Có người không đầy cảm xúc cũng làm được ra thơ. Có người cảm xúc dâng tràn mà trước thơ ngồi cắn bút. Thơ hay, thơ dở, thơ dở dở ương ương tràn ngập chợ thơ như trên trời dưới đất chỉ có thơ. Thơ nhiều đến ngạt thở chứ thơ chẳng còn tự nhiên như hơi thở mà ta vẫn hoài vọng một thời.

  • THẠCH QUỲSuốt đời cần mẫn với công việc, luôn mang tấm lòng canh cánh với thơ, vì thế, ngoài tập “Giọng Nghệ” in riêng và bao lần in chung, nay Ngô Đức Tiến lại cho ra tập thơ này.

  • Trong đội ngũ những người hoạt động văn nghệ tại Thừa Thiên Huế, bên cạnh các Hội chuyên ngành trực thuộc Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật (như Hội Nhà văn, Hội Mỹ thuật, Hội Âm nhạc…) có một tổ chức gọi là “Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Thừa Thiên Huế”(CHNV).

  • Hà Khánh Linh xuất thân trong một gia đình khoa bảng nổi tiếng ở Huế. Tên khai sinh của chị là Nguyễn Khoa Như Ý. Năm 20 tuổi, đang học dở dự bị đại học Khoa Học Sài Gòn thì chị quyết định bỏ học để gia nhập quân Giải phóng. Từ đó cho đến khi nghỉ hưu chị đã từng đi dạy, làm phóng viên Đài phát thanh Giải phóng, Đài phát thanh Bình Trị Thiên, làm biên tập, Thư ký Tòa soạn rồi Phó tổng biên tập Tạp chí Sông Hương. Chị quen biết và giao tiếp khá rộng từ các vị quan chức đến các vị đại đức, linh mục, trí thức... cùng những năm tháng gian khổ ở chiến trường Trị Thiên, những chuyến đi thực tế ở Căm pu chia... đã giúp chị có một vốn sống hết sức phong phú.

  • Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ sinh ra và lớn lên bên bờ sông Kiến Giang thơ mộng. Nhưng tuổi thơ của chị chứa đầy buồn đau và nước mắt: Mẹ không có cửa nhà/  Em đứa trẻ vắng cha/ Như mầm cây trên đá/ Biết khi nào nở hoa? Nỗi tuyệt vọng cứ ám ảnh suốt cả tuổi thơ của chị. Trong một bài thơ đầu tay chị viết: Tuổi thơ tôi như ráng chiều đỏ lựng/ Hắt máu xuống dòng sông đen.

  • Trần Thùy Mai bắt đầu được các bạn trẻ yêu thích văn chương ở Huế biết đến khi chị đang học ở trường Đồng Khánh những năm trước giải phóng (1975). Tốt nghiệp vào loại xuất sắc, chị được giữ lại làm cán bộ giảng dạy ở trường đại học Sư phạm Huế. Dạy ở trường đại học Sư phạm Huế được một vài năm, chị chuyển sang làm công tác biên tập ở nhà xuất bản Thuận Hóa. Đây là một quyết định khá táo bạo và sáng suốt. Làm việc ở nhà xuất bản, chị có điều kiện viết lách hơn.

  • LÊ HUỲNH LÂM                 (Đọc Viết bên Hộ Thành hào - thơ Nguyên Quân -, Nxb Thuận Hoá, 2009)Giữa những đổ nát hoang tàn quá khứ và hiện tại, khi mà thang giá trị bị đảo lộn, những mảnh vỡ đang vung vãi mọi nơi, tác giả lại tìm đến Hộ Thành hào để nhìn ngắm cõi lòng đang hỗn hênh mọi thứ và như chợt nhận ra niềm hy vọng mỏng mảnh, anh đã Viết bên Hộ Thành hào.

  • HOÀNG DIỆP LẠCBất chợt giữa một ngày mưa gió, nhìn những hạt nước toé lên từ mặt đất như những đoá hoa mưa. Một loài hoa của ảo giác. Có thể trong tâm trạng như vậy, Lê Tấn Quỳnh chợt hỏi:Hoa vông vangCó hay không

  • ĐINH NAM KHƯƠNG(Thơ Tuyết Nga - NXB Hội Nhà văn 2002)

  • NGUYỄN VĂN HOA1. Cuối thế kỷ 20, tôi làm cuốn sách “Tuyển tập thơ văn xuôi Việt Nam và thế giới” cùng tiến sỹ Nguyễn Ngọc Thiện (Viện Văn học Việt Nam), trong tập sách này gồm phần học thuật và phần tuyển thơ Việt Nam và Thế giới. Phần thơ Việt có nhiều tác giả sinh sống ở Huế, ngẫu nhiên-tình cờ có hai nhà thơ có thơ trong tập này, đó là Hải Bằng và Hải Trung.

  • NGA LINH NGA1. Xuất bản mười hai tập thơ, mười hai tập văn xuôi, một tập nhạc; viết mười hai kịch bản phim chân dung, hai mươi lời bình cho các phim khác, biên soạn hai mươi tập nhạc... điều thật khó tin ở một người nổi tiếng rong chơi, thích cao đàm khái luận, thường không mấy khi vắng mặt nơi những cuộc rượu của đám văn nghệ Hà Thành như Nguyễn Thụy Kha.

  • L.T.S: Trong vài năm lại đây, ở Huế, chưa có tập sách nào ra đời lại gây được “hiệu ứng ngạc nhiên” cho bạn đọc như một hiện tượng ngoài tập Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa ấn hành vào dịp kỷ niệm 30 năm ngày giải phóng Huế và Đà Nẵng vừa qua. Ngoài các bài viết giới thiệu, phê bình in trên nhiều tờ báo trung ương và địa phương, Sông Hương vẫn tiếp tục nhận được thêm các ý kiến cảm thụ về tập thơ này.Xin trân trọng giới thiệu cùng quý bạn đọc

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG           (Đọc tập thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)

  • YÊN CHÂU          (Đọc Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)Giống như những cây xanh bói muộn bất ngờ cho một mùa hoa trái, thơ Nguyễn Xuân Hoa xuất hiện đột ngột như vậy. Anh không cho in rải rác đâu đó, cũng không đọc thơ ở những cuộc gặp gỡ bạn bè. Im lặng, đùng một cái cho ra hẳn một tập thơ. Thơ Trà My của nguyễn Xuân Hoa đã đến với bạn bè như vậy.

  • BÙI ĐỨC VINH            (Nhân đọc tập thơ “Cho người tôi thương nhớ”-NXB Hội Nhà văn 2004)Có một chàng thi sĩ phong tình đi lang thang vô định trên nẻo đường mưa bay gió tạt, chợt lơ đãng nhận ra mình là kẻ bị tình yêu truy nã trong bài thơ “Nhận diện” anh đã tự thú với trái tim thổn thức của mình.

  • INRASARA           (Đọc Mang, tập thơ của Phan Trung Thành, Nxb, Trẻ TP.Hồ Chí Minh, 2004.)Dòng Seine và cầu Mirabeau, cuộc tình với người tình. Sông đi và cầu ở lại, cuộc tình tan nhưng người tình thì ở lại. Mãi mãi ở lại, cùng nỗi buồn ở lại.                Con sông nào đã xa nguồn                Thì con sông đó sẽ buồn với tôi                                                (Thơ Hoài Khanh)

  • THANH THIỆNBốn mùa yêu là tập thơ tình mang ý nghĩa "vật chứng" cho một biệt lập tâm hồn có tên là Lưu Ly. Người thơ này dường như luôn đắm mình trong giai điệu tình yêu muôn thuở giữa ba ngôi Trao - Nhận - Trả và đã chọn cách trả sòng phẳng nhất cho sự nhận của mình là trả vào thơ.

  • NGUYỄN VĂN HOA(Nhân đọc Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường)Tôi đã đọc nhiều tác phẩm của Hoàng Phủ Ngọc Tường và tôi cũng đã gặp ông trực tiếp đôi ba lần ở Huế và Hà Nội. Nhưng ấn tượng nhất là buổi hội ngộ của gia đình tôi với ông ở nhà nhà thơ Ngô Minh ở dốc Bến Ngự Huế.

  • HOÀNG VŨ THUẬT         (Thơ Chất trụ của Nguyễn Hữu Hồng Minh- Nxb Thuận Hoá 2002)Nguyễn Hữu Hồng Minh không làm cái phép phù thuỷ đưa độc giả tới một không gian rắc rối. Quan niệm về thơ của anh được trình bày rất nghiêm túc qua bài “Chất trụ”, lấy tên cho tập thơ. Tôi rất đồng tình quan niệm này, không mới, nhưng không dễ làm người ta chấp nhận.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN(Đọc Dòng sông Mía của Đào Thắng)