PHẠM PHÚ PHONG
Trần Vàng Sao là một người yêu nước. Điều này dễ dàng khẳng định cả về nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, nghĩa trực tiếp lẫn gián tiếp, không chỉ bởi lẽ anh đã chọn bút danh là Trần Vàng Sao, là tác giả của Bài thơ của một người yêu nước mình, mà còn chủ yếu là ở thế giới hình tượng nghệ thuật và thi trình của anh gắn liền với vận mệnh của đất nước và số phận của nhân dân.
Nhà thơ Trần Vàng Sao (1941-2018) - Ảnh: Lê Vĩnh Thái
Với một quan niệm nghệ thuật thấm đẫm những ưu tư của đời sống và tư duy nghệ thuật dường như lúc nào cũng “trục trặc” như chính cuộc sống của người sinh ra nó, đã tạo cho thế giới nghệ thuật của anh, những đặc điểm riêng.
1. Có khá nhiều thơ viết về đất nước và phải thừa nhận là có nhiều bài hay, trong đó có những bài đã trở nên cổ điển, khá phổ biến như Đất nước của Nguyễn Đình Thi hoặc chương Đất nước trong trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm. Nhưng Trần Vàng Sao có một đất nước của riêng anh. Hình tượng đất nước trong thơ Trần Vàng Sao không thấm đẫm chất sử thi như “Đất nước của những người không bao giờ chịu khuất/ Đêm rì rầm trong tiếng đất/ Những buổi ngày xưa vọng nói về” (Nguyễn Đình Thi) và cũng không quyện chặt chất văn hóa dân gian và lịch sử như “Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn (...) Đất là nơi anh đến trường/ Nước là nơi em tắm (...) Đất là nơi Chim về/ Nước là nơi Rồng ở” (Nguyễn Khoa Điềm), mà đất nước trong cái ngước nhìn của Trần Vàng Sao là những gì gần gũi, cụ thể diễn ra hằng ngày trong đời sống, là gió sớm mai, nắng trưa gay gắt, là mưa chiều nặng hạt, là tiếng chim kêu, tiếng chó sủa, tiếng la mắng con của người hàng xóm, là nỗi nhọc nhằn của mẹ của cha, là “tôi yêu mẹ tôi áo rách/ chẳng khi nào nhớ tuổi mình bao nhiêu (...) mẹ tôi nuôi tôi mười mấy năm không lấy chồng/ thương tôi nên ở góa nuôi tôi”. Thật khó tìm thấy những triết lý cao siêu, những tri thức văn hóa lịch sử đôi khi làm ta không nhớ hết, mà thơ anh là hơi thở thân thương của cuộc sống những người lao khổ, chưa đủ cơm no áo ấm, của những “căn nhà dột phên không ngăn nổi gió/ vẫn yêu nhau trong từng hơi thở/ lòng vẫn thương cây nhớ cội hoài”. Tôi không biết trong các giáo trình cơ sở văn hóa Việt Nam họ dạy những gì, nhưng tôi nghĩ văn hóa Việt không cao siêu trừu tượng, mà hết sức gần gũi, cụ thể, đó chính là văn hóa đời sống thể hiện trong quan hệ hằng ngày, thực chất là văn hóa ứng xử. Và, vì vậy, có thể nói, thơ Trần Vàng Sao đầy ắp những vỉa tầng văn hóa Việt/ văn hóa nhân bản và chính vì được hấp thụ những giá trị văn hóa trầm tích lâu đời ấy, mà ta ngẫng cao đầu để sống nên người:
tôi yêu đất nước này như thế
như yêu cây cỏ trong vườn
như yêu mẹ tôi chịu khó chịu thương
nuôi tôi thành người hôm nay
Chỉ trong một bài thơ, anh nhắc đi nhắc lại hơn mười lần cái mệnh đề “tôi yêu đất nước này...” như một điệp khúc, trước khi gọi tên đất nước xót xa, cay đắng, áo rách, rau cháo, lầm than, khôn nguôi... nhưng vẫn bắt nguồn từ căn nhà của mẹ, tấm áo vá của cha, từ vóc dáng người em kẹp tóc thuở học trò, và nhờ những khung cảnh thân thương ấy nuôi lớn thành người:
tôi yêu đất nước này chân thật
như yêu căn nhà nhỏ có mẹ tôi
như yêu em nụ hôn ngọt trên môi
và yêu tôi đã biết làm người
(Bài thơ của một người yêu nước mình)
2. Thực chất, từ trong cội nguồn lịch sử văn hóa dân tộc, đã hình thành nên đẳng thức: nước là của dân, dân là của nước. Nên đất nước là của nhân dân và nhân dân của thơ anh là những người cần lao cơm chưa đủ no, áo chưa đủ ấm, những mẹ già, những em bé, người thợ thổi chai, thằng hề, người kéo màn... Chỉ qua những tiêu đề của các bài thơ cũng có thể nhận ra đối tượng trữ tình mà thơ anh hướng đến là những con người thuộc tầng lớp dưới, những con người nghèo khổ, bé mọn như đứa bé thả diều trên cánh đồng và vắt cơm cúng mả mới, lời khai của một người hề, người đàn ông mất trí và con chó chưa mở mắt, bản thánh ca của một tên hề mất trí là thi sĩ hay là sự tích tôi làm hề, trong cơn sốt đưa chị Miên về Đông Xuyên... Nhân dân của anh còn có những người đã khuất bởi chiến tranh, là bộ phận chi phối như một nổi ám ảnh nặng nề trong tâm tưởng cả đời anh, lúc vào tuổi ngoài bảy mươi, anh dành hẳn một bài thơ dài có vóc dáng một trường ca thảng thốt kêu lên như một nhà ngoại cảm Gọi tìm xác đồng đội (Nxb. Hội Nhà văn, 2012). Không phải bây giờ anh mới quan tâm đến “loại” nhân dân này, mà đã từng lướt qua “thập loại chúng sanh” trong bài văn bia, hoặc đã từng dựng tượng đài “Tổ quốc ghi công” trong bài đồng chí/ trong tâm tưởng anh với niềm hạnh nguyện lặp đi lặp lại như một điệp khúc “mi chết thật rồi sao”, một câu hỏi không có lời đáp lại, như hỏi trời hỏi đất, hỏi quá khứ, hỏi tương lai, hỏi tai ương chiến tranh hay hỏi chính tâm can mình thành một lời khẳng định: “mi đã chết thật rồi/ như Nguyễn Thiết, Lê Minh Trường, Phạm Bá Thuận, Chế Công Việt, Trần Văn Nam, Nguyễn Thị Nga...”. Câu thơ liệt kê tên các liệt sĩ dài đến hụt hơi, nhưng vẫn chưa đủ tên tuổi những đồng đội đã hy sinh, anh phải dành hơn ba mươi trang sách khổ lớn (21 x 29,7cm) để Gọi tìm xác đồng đội.
Đúng như nhan đề của tác phẩm, mỗi đoạn, mỗi trang như một bản tin nhắn tìm đồng đội trên đài truyền hình, với tên tuổi, địa chỉ, quê quán, nơi hy sinh, trường hợp hy sinh, địa chỉ người thân... cụ thể đến mức có thể căn cứ vào đó mà xác minh liệt sĩ. Mỗi người có mỗi hoàn cảnh cuộc đời, hoàn cảnh hy sinh khác nhau, những gì còn lại sau khi ngã xuống cũng khác nhau, người được công nhận liệt sĩ, người không. Có người được công nhận liệt sĩ nhưng bằng “Tổ quốc ghi công” không có người nhận phải treo ở trụ sở chính quyền địa phương. Hóa ra sự chết cũng phong phú không kém gì sự sống. Số lượng đông đảo hơn là “bản tin” tìm kiếm của người thân, những người mẹ, người cha, người vợ, người cậu, dì, cô, chú bác, anh, chị em và cả bạn bè đồng đội, những người còn lại sau chiến tranh, đau đớn đến quặn lòng gọi tìm đồng đội. Cả một tập thơ dài là một nỗi đau triền miên, là bản tổng kết về sự hy sinh mất mát của cả một thế hệ trong lịch sử dân tộc. Ai bảo chết là hết đâu? Nó vĩnh cửu với người đã chết nhưng vẫn còn sống mãi trong lòng của người đang sống. Do vậy, tập thơ không khỏi gây cảm xúc nặng nề, bởi nó được viết ra bằng máu và nước mắt của một người trong cuộc. Dường như anh không làm thơ, mà thể hiện tâm can của mình thành một lời tưởng niệm, một món nợ với những người đã khuất, mà người còn sống như anh phải trả, phải nhắc cho mọi người phải khắc ghi. Có thể nói, chưa có tác phẩm nào trình bày cụ một cách cụ thể và đông đảo nhiều trường hợp hy sinh như tác phẩm của Trần Vàng Sao. Đọc anh, càng suy ngẫm, càng thấm thía và quý trọng cái giá trị của cuộc sống độc lập, tự do hiện nay mà chúng ta đang có.
3. Một quan niệm nghệ thuật đòi hỏi phải thể hiện bằng một thi pháp tương ứng. Thơ Trần Vàng Sao thể hiện một quan niệm về đất nước và nhân dân đã đi qua một cuộc chiến tranh với tất cả sự dữ dội, tàn khốc, trần trụi đến mức tàn nhẫn với bao nhiêu người đã chôn vùi sự sống và tuổi thanh xuân của mình trong đó, nhưng không phải để bi quan, hư vô đến vô nghĩa mà luôn có cái nhìn ấm áp ở tương lai. Đặc điểm nổi bật trong cấu trúc thơ anh là vào cuối bài thường dùng những câu đồng cảm “vật ngã tương giao” với thiên nhiên, với thời tiết để soi rọi niềm tin vào sức sống của con người. Khi thì anh tiên đoán “đến chiều trời sẽ mưa dông rất mát” (tôi được ăn thịt), khi thì buồn lòng “trời vẫn không mưa cho được mát” (khoảng trống ngoài sân khấu), hoặc “trời mưa hoài không tạnh” (sự tích hòn bi của tôi). Đăc điểm này lặp đi lặp lại ở nhiều bài thơ của anh (nhớ Ức Trai, đưa vợ đi đẻ, buổi trưa giữa đường tôi ngồi núp mưa, lục bát, lúc đó, những lúc đó, những lúc đó có khi như thế, đêm). Ngay cả bài hai mươi mốt muôn năm, in cuối bài thơ dài Gọi tìm xác đồng đội như một lời vĩ thanh, cuối bài anh cũng tả: “đêm mưa không hết/ có tiếng chẻ củi ở nhà bên cạnh”, hoặc ngay trong bài Gọi tìm xác đồng đội, bên cạnh những dòng tin nhắn, những cái chết không toàn thây, không tìm thấy xác, anh vẫn dừng lại với bức tranh lãng mạn về những buổi sớm mai:
những buổi sớm mai
những buổi sớm mai thơm mùi lúa
tôi đi qua những cánh đồng đất mới cuốc lật
hai bên đường bông cỏ vừa nở
chim hót trong gió mát
và sương cũng mờ trong cây bên kia đường
em làm gì mà ngơ ngác như không thấy tôi
những buổi sớm mai
như thơ tôi
sớm mai
mặt trời mọc
như thơ tôi ở với trời đất ở với anh em bạn bè tôi người sống người chết
thơ tôi là đời tôi là tôi đây
Tuổi Tân Tỵ (1941) của anh nhiều người thành đạt, có đến gần ba mươi tác giả cùng tuổi với anh hanh thông trong cuộc đời và sự nghiệp. Riêng anh, cả cuộc đời và thơ dường như không mấy suôn sẻ. Nó như câu thơ của anh lúc nào cũng “trục trặc”, không vần không điệu, không trau chuốt về câu chữ, câu dài câu ngắn (có câu chỉ một từ, có câu dài đến mấy chục từ, đọc muốn hụt hơi). Giọng điệu thơ anh như được truyền trực tiếp từ đời sống. Anh viết giản đơn như nói. Nhưng điều quan trọng hơn, trong màu xanh của cây lá, của sự sống, anh không chỉ nhìn thấy màu sắc, hình vóc mà còn nhận ra được cả những đường gân lá, để hình dung ra diện mạo một đất nước của riêng anh, đất nước của những người lao khổ/ những người ngã xuống trong chiến tranh.
P.P.P
(TCSH352&SDB29/06-2018)
HOÀNG NHƯ MAI - NGUYỄN VĂN HẤN Cùng với những tập quán cổ truyền ngày Tết dân tộc, từ cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến nay, nhân dân ta đã có thêm một tập quán quý báu nữa: đọc thơ chúc Tết của Bác Hồ.
NGÔ MINHTôi đọc và để ý đến thơ Đông Hà khi chị còn là sinh viên khoa văn Trường Đại học Sư phạm Huế. Thế hệ này có rất nhiều nữ sinh làm thơ gây được sự chú ý của bạn đọc ở Huế và miền Trung như Lê Thị Mỹ Ý, Nguyễn Thanh Thảo, Huỳnh Diễm Diễm.v.v... Trong đó có ấn tượng đối với tôi hơn cả là thơ Đông Hà.
NGUYỄN ANH TUẤNKhông gian trữ tình không là một địa danh cụ thể. Mặc dù có một “thôn Vĩ” luôn hiện hữu hết sức thơ mộng trên toàn đồ trực diện thẩm mỹ của bài thơ, với những màu sắc, hình ảnh, đường nét:…
KHÁNH PHƯƠNGNhân cách văn hóa của nhà văn có thể được biểu hiện bằng những hành động, thái độ trong đời sống, nhưng quan trọng hơn, nó chi phối nhân cách sáng tạo của nhà văn.
HỒNG DIỆUTrương Mỹ Dung đời Đường (Trung Quốc) có một bài thơ tình yêu không đề, được nhiều nhà thơ Việt Nam chú ý.
NGUYỄN KHOA BỘI LANMột hôm chú Văn tôi (Hải Triều Nguyễn Khoa Văn) đọc cho cả nhà nghe một bài thơ mà không nói của ai.
NGUYỄN QUANG HÀTôi nhớ sau thời gian luyện tập miệt mài, chuẩn bị lên đường chi viện cho miền Nam, trong lúc đang nơm nớp đoán già đoán non, không biết mình sẽ vào Tây Nguyên hay đi Nam Bộ thì đại đội trưởng đi họp về báo tin vui rằng chúng tôi được tăng viện cho chiến trường Bác Đô.
LÊ HUỲNH LÂM(Đọc tập truyện ngắn “Thõng tay vào chợ” của Bạch Lê Quang, NXB Thuận Hóa, 11/2009)
LÊ VŨ(Đọc tập thơ Nháp của Ngọc Tuyết - NXB Thanh niên 2009)
NGÔ MINHÐọc lại Chiếu Dời đô, tôi bỗng giật mình trước sự vĩ đại của một quyết sách. Từng câu từng chữ trong áng văn chương bất hủ này đều thể hiện thái độ vừa quyết đoán dứt khoát với một lý lẽ vững chắc, vừa là một lời kêu gọi sự đồng thuận của triều thần với lời lẽ rất khoan hòa, mềm mỏng.
LÊ HUỲNH LÂMThơ không thể tách rời đời sống con người. Điều đó đã được thời gian minh chứng. Từ lời hát ru của mẹ, những giọng hò trên miền sông nước,… đã đánh thức tình yêu thương trong mỗi chúng ta.
KHÁNH PHƯƠNGNgay từ thuở cùng Trần Mai Châu, Vũ Hoàng Địch, Vũ Hoàng Chương viết tuyên ngôn Tượng trưng, Trần Dần đã mặc nhiên khảng khái công bố quan niệm, thơ bỏ qua những biểu hiện đơn nghĩa của sự vật, sự kiện, đời sống, mà muốn dung hợp tất cả biểu hiện hiện thực trong cõi tương hợp của cảm giác, biến nó thành không gian rộng lớn tiếp biến kỳ ảo của những biểu tượng tiềm thức. Như vậy cũng có nghĩa, nhà thơ không được quyền sao chép ngay cả những cảm xúc dễ dãi của bản thân.
NGUYỄN CƯƠNGSư Bà Thích Nữ Diệu Không (tục danh Hồ Thị Hạnh) sinh năm 1905 viên tịch năm 1997 hưởng thọ 93 tuổi. Lúc sinh thời Sư Bà trụ trì tại Chùa Hồng Ân, một ngôi chùa nữ tu nổi tiếng ở TP Huế, đã một thời là trung tâm Phật giáo ở miền Nam.
HỒNG NHU (Đọc tập “Chuyện Huế” của Hồ Đăng Thanh Ngọc - NXB Thuận Hóa 2008)
NGUYỄN ĐÔNG NHẬTĐọc xong tập sách do họa sĩ Phan Ngọc Minh đưa mượn vào đầu tháng 6.2009(*), chợt nghĩ: Hẳn, đã và sẽ còn có nhiều bài viết về tác phẩm này.
NGUYỄN HỮU QUÝ (Mấy cảm nhận khi đọc Chết như thế nào của Nguyên Tường - NXB Thuận Hóa, 2009) Tôi mượn thuật ngữ chuyên ngành y học (Chăm sóc làm dịu=Palliative Care) để đặt tít cho bài viết của mình bởi Phạm Nguyên Tường là một bác sĩ điều trị bệnh ung thư. Tuy rằng, nhiều người biết đến cái tên Phạm Nguyên Tường với tư cách là nhà thơ trẻ, Chủ tịch Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế hơn là một Phạm Nguyên Tường đang bảo vệ luận án tiến sĩ y khoa.
LÊ THỊ HƯỜNGTìm trong trang viết là tập tiểu luận - phê bình thứ 3 của Hồ Thế Hà. Sau những ngày tháng miệt mài “Thức cùng trang văn” (viết chung với Lê Xuân Việt, được giải thưởng Cố đô 1993 - 1997), Hồ Thế Hà lại cần mẫn “tìm trong trang viết” như một trăn trở đầy trách nhiệm với nghề.
MAI VĂN HOANNguyễn Công Trứ từng làm tham tụng bộ lại, Thị lang bộ Hình, Thượng thư bộ Binh... Đương thời ông đã nổi tiếng là một vị tướng tài ba, một nhà Doanh điền kiệt xuất. Thế nhưng khi nói về mình ông chỉ tự hào có hai điều: Thứ nhất không ai "ngất ngưỡng" bằng ông; thứ hai không ai "đa tình" như ông. Nguyễn Công Trứ "ngất ngưỡng" đến mức "bụt cũng phải nực cười" vì đi vào chùa vẫn mang theo các cô đào.
SICOLE MOZETBà Nicole Mozet, giáo sư trường Paris VII, chuyên gia về Balzac và là người điều hành chính của các hội thảo về Balzac đã làm một loạt bài nói chuyện ở trường Đại học ngoại ngữ Hà Nội, trường Đại học sư phạm Hà Nội, Nhà xuất bản thế giới... Chúng tôi trích dịch một đoạn ngắn trong bản thảo một bài nói chuyện rất hay của bà. Lúc nói bà đã phát triển những ý sau đây dưới đầu đề: Thời gian và tiền bạc trong Eugénie Grandet, và đã gợi cho người nghe nhiều suy nghĩ về tác phẩm của Batzac, cả về một số tác phẩm của thế kỉ XX.
CAO HUY HÙNGLịch sử vốn có những ngẫu nhiên và những điều thần tình mà nhiều người trong chúng ta chưa hiểu rõ. Tỉ như: Thế giới có 2 bản Tuyên ngôn độc lập, đều có câu mở đầu giống nhau. Ngày tuyên bố tuyên ngôn trở thành ngày quốc khánh. Hai người soạn thảo Tuyên ngôn đều trở thành lãnh tụ của hai quốc gia và cả hai đều qua đời đúng vào ngày quốc khánh...