Cỏ hoa Phùng Quán

11:05 21/04/2008
Nhà thơ Phùng Quán trọn cuộc đời (1932 - 1995) là một chiến sĩ Vệ Quốc Đoàn xông xáo và nhiệt huyết.

Những tác phẩm văn xuôi như “Vượt Côn Đảo”, “Tuổi thơ dữ dội”... những bài thơ “Di chúc chiến sĩ”, “Tiéng hát trên địa ngục Côn Đảo”, “Chống tham ô lãng phí”, “Đêm Nghi Tàm đọc thơ Đỗ Phủ cho vợ nghe”.v.v... của anh bây giờ đọc lại vẫn hừng hực lửa chiến đấu. Có lẽ vì thế mà anh rất ít thời giờ để làm thơ thưởng hoa vịnh nguyệt. Tôi đọc trong số hàng trăm bài thơ anh để lại, chỉ đếm được có hơn chục bài viết về hoa lá, cây, cỏ, quả, như các bài “Cây vạn niên thanh”, “Cây xương rồng”, “Cây dứa”, “Hoa sen”, “Cây mận ở Vĩnh Linh”, “Hoa cứt lợn”.v.v... Phùng Quán ngắm hoa lá cỏ cây theo cách riêng của mình. Anh không ca ngợi vẻ đẹp, màu sắc, hương thơm quyến rũ như trước một giai nhân đơn thuần của cỏ hoa, mà chủ yếu là anh phát hiện và xưng tụng sự hữu ích, sự hi sinh, lòng nghĩa khí. Với anh, nhiều loại cây lá có phẩm chất của một chiến sĩ! Bởi vậy, nhà thơ coi những cây vạn niên thanh, cây xương rồng, cây dứa... là những bậc thầy của mình về bản lĩnh sống, nên phải xưng bằng “Anh”, bằng “Người” - “Cả một đời tôi chỉ khiếp phục anh”, bởi vì: “Anh uống độc khí trời / Anh xơi độc nước lã / Anh vẫn tràn trề sức lực tươi xanh / Vẫn tặng cho đời chất thơ của sắc lá!” (Cây Vạn niên thanh) hay: “Xương rồng ơi xương rồng! / Anh có thật xương rồng? / Hay xương người nghĩa khí / Ngã xuống rồi hoá thân?...” (Cây xương rồng); “Dứa ơi! / Người hãy dạy tôi / Cách chắt lọc từ khô cằn sỏi đá / Chất mật mát lành dịu nắng lửa trăm cơn” (Cây dứa); Cây cọ mọc trên đồi, trổ lá cho người lợp nhà, “Che cho mình dăm tàu lá nhỏ / Che cho đời nghìn tán lá xanh...” (Cây cọ)... Phùng Quán tìm thấy trong cây cỏ hoa lá bao điều tâm đắc, ước nguyện của mình về thơ. Cái chất thơ trong cỏ hoa ấy là chất Phùng Quán: “với tôi thơ mới là tất cả. Thơ là lý lịch là mạng sống đời tôi”...
Gây ấn tượng nhất đối với tôi là câu chuyện về bài thơ “Trường ca cây cà”. Sinh thời mỗi lần “vi hành” vào Huế, nhà thơ Phùng Quán thường tá túc tại nhà tôi, nhà Hoàng Phủ Ngọc Tường ở Bến Ngự hoặc nhà thầy giáo Lê Gia Ninh ở bên Cống Lương Y. Mỗi sáng, anh dậy sớm, xỏ chân vào đôi dép dày cộp, nặng như cùm tự anh cắt đục từ lốp ô tô cũ, mặc chiếc áo chàm cũ, đeo chiếc bị cói và dắt chiếc xe trâu cao lêu nghêu ra đường, bắt đầu ngày đi đọc thơ “phục vụ” mọi người. Đến tận khuya anh mới ngất ngưỡng về. Lần ấy, cả một tuần liền anh không về ngủ. Thì ra anh vào Đà Nẵng, Quảng đọc thơ tít mù từ phố xuống huyện, xã. Đúng ngày Đại hội Văn nghệ Bình Trị Thiên (cũ) lần thứ ba, anh xuất hiện ở Huế, nét mặt rạng rỡ, khệ nệ mang một chồng báo “Quảng Nam-Đà Nẵng cuối tuần” có in bài thơ “Trường ca cây cà” ký tặng bạn bè. Đó là mùa đông năm 1987, lần đầu tiên sau 30 năm anh lại được báo in bài thơ tâm huyết. Anh lấy nhuận bút bằng mấy trăm tờ báo để tặng! Gặp lại tôi anh cao hứng đọc: “Chính cây cà quê mùa lao lực / Đã dạy anh dũng khí bền gan”. Đúng như thơ anh từng viết: “Có những phút ngã lòng / Tôi vịn câu thơ mà đứng dậy!”. Tôi mừng cho anh và đọc đến thuộc “Trường ca cây cà”. Bài thơ gọi là trường ca có tới 6 chương, nhưng chỉ 56 câu thơ. Có chương chỉ có 2 câu, 5 câu. Bài thơ súc tích, chặt chẽ với ý tưởng lớn và rất cảm động. Cây cà Việt “Thân lao lực màu quê... Mặc cho sâu róm đầy cành / Rễ còn bám đất / Còn khôn nguôi tím nguôi xanh”, “Bạc tóc trồng cà / Tôi mới hiểu ra / Vì sao Gióng / Trước khi lên ngựa sắt / Vung roi trừ giặc / Chỉ ăn cơm cà...”, Người Nghệ “Muối một vại cà / Ăn một năm / Sử kháng chiến ngàn trang / Người Nghệ ưa vắn tắt: / - Đánh Pháp hết chín vại cà / Đánh Mỹ hết hai chục vại...”. Bài thơ cuốn hút bởi hình tượng sinh động đầy sức thuyết phục về sức mạnh Việt , lại dân dã dễ đọc, dễ hiểu, dễ nhớ!

Người Huế ai cũng thích ngắm hoa sen, mua hoa sen về thờ hoặc cắm trên bàn. Nhưng ngắm sen như Phùng Quán thì chỉ một! Anh đọc và phát hiện ra trong câu ca dao “Trong đầm gì đẹp bằng sen / Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng / Nhị vàng bông trắng lá xanh / Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn” sự vô lý, khó hiểu và khó chịu. Anh cho rằng câu ca dao trên không phải do nhân dân làm ra mà do bọn phản trắc... “vốn con cái của giai cấp cùng khổ / Chúng chòi lên cuộc đời quyền lực vàng son / Nghĩ đến mẹ cha chúng xấu hổ...” nên chúng cho rằng, chúng gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn! Tất cả là trong cái chữ gần. Tôi cho rằng sự phát hiện đó là có lý. Và những điều nhà thơ nghĩ ngợi về chuyện sen - bùn mới là chân lý sâu sắc, thấm thía: Mỗi lần anh đọc bài thơ này trước đông người, anh vung tay giận dữ, rồi giọng trầm xuống run run như nén lại, như nguyện cầu: “Bùn với sen đâu phải chuỵện gần? / Chính là sen mọc lên từ trong đó / Gốc của sen là thăm thẳm bùn đen / ... Ngay cả hương thanh khiết ta đặt lên bàn thờ cúng / Cũng là xương thịt của bùn tanh! / Như nhân dân / Gian truân, thầm lặng, vô danh / Đã sinh ra vĩ nhân, anh hùng, nghệ sĩ...”.
Phùng Quán nhiều đêm kể cho tôi nghe rằng anh đã từng sống một mình trong cái lán lợp lá mía ở Trại tăng gia bên bờ con suối có tên là Linh Nham, vùng núi Thái Nguyên suốt ba năm ròng. Mùa mưa lũ, không ai dám vượt suối, nên anh như Robinson Crusoe trên hoang đảo. Quanh lán mọc đầy cỏ dại và cây trinh nữ. Bàn ghế là rễ cây khô ghép lại. Giường nằm là cây cổ thụ bị bão xô bật gốc lũ cuốn về, lấy rìu vạt bằng phía trên, rồi đục lõm xuống như cái áo quan. Anh sống với một con chó, một con heo, một bầy gà. Người với vật cùng ăn sắn, bắp, rau lang, ốc suối và cá tôm tự đánh bắt lấy. Anh đã tự đào một cái huyệt ngay trước mặt lán, dài hai mét, rộng một mét, sâu mét rưỡi, để phòng khi kiệt sức, bên mình khong có ai! Một lần anh mắc phải chứng dị ứng lở loét toàn thân, tưởng không sống nổi. May mắn được một vị sư nữ già chùa Tăng Cấu cứu khởi bệnh nhờ mấy nắm lá tên là lá khổ sâm mọc trên đồi. Ơn cây, ơn người cứu mạng, sau đó anh làm bài thơ “Lá khổ sâm”. Bài thơ buồn đau như một vết cắt. Phải trải nghiệm và yêu cuộc đời lắm mới viết được những câu thơ da diết cõi lòng “Tôi phải lên rừng / Hái lá khổ sâm / Tự mình cất lấy ly rượu sống / Ôi rượu khổ sâm đắng lắm / Đắng đến tận cùng nỗi đắng thế gian... / Bạn hữu thân thiết ơi!? Xin đừng trách cứ tôi / Sao trong câu thơ tôi cứ lẫn nhiều vị đắng... Cỏ cây hoa lá trong thơ Phùng Quán là những biểu tượng của cuộc sống tâm linh anh muốn gửi đến và chia sẻ với độc giả của mình.
Ngay cả trong tình yêu, Phùng Quán cũng có cách thể hiện thơ khác người đời. Sinh nhật người yêu không phải năm bông hồng, mà anh tặng quả bí xanh! Bài thơ “Quả bí xanh” là một bài thơ tình với nhiều sự tích thú vị. Năm 1984, sau ba mươi năm anh lại được vào Huế quê nội. Anh mồ côi cha từ năm lên hai. Lớn lên năm tuổi đã giúp mẹ chăn trâu, cắt cỏ ở làng Thuỷ Dương xứ Huế. Suốt ngày người đen nhẻm và nồng mùi bùn đất. 13 tuổi anh trốn mẹ đi theo Vệ Quốc Đoàn đánh Pháp. Cho nên anh nhớ và yêu quê hương tha thiết. Những ngày ấy, anh bị “tiếng sét tình yêu” của một thiếu phụ Huế đài các và từng trải hớp hồn. Nàng thì áo dài tím thướt tha. Còn anh thì áo chàm sờn, dép cao su, bị cói như một nông dân miền ngược! Biết thế nhưng anh vẫn luôn ghé thăm nàng như một niềm si mê đơn độc. Ngày sinh nhật nàng, anh rủ tôi đạp xe xuống Thuỷ Dương quê anh, thỉnh một trái bí to, da căng mọng màu ngọc bích. Rồi anh cặm cụi đề thơ lên bí. Xong chúng tôi lấy bao tải, quần áo cũ bọc trái bí cẩn thận, xong anh ôm bí ngồi xích lô lên Huế. Trưa hôm ấy, hàng trăm người ngạc nhiên trước món quà tặng quá bất ngờ của thi sĩ Phùng Quán: Đó là một quả bí xanh lớn có bài thơ đề trên da bí mà anh gọi là khối thiên thần màu ngọc bích! Anh nâng tặng vật nặng trĩu trên tay, nói trong tiếng thở gấp: “-Tặng vật tôi mang từ quê nội tặng sinh nhật em đây!”. Nàng thơ bước vội sau tấm màn gió, cầm ra chiếc gối còn dính vài sợi tóc của nàng để làm gối cho anh đặt “trái bí thơ”: “Trên da bí / Màu men ngọc lý / Tôi tạc câu thơ / Buồn như lửa / Hoả táng trái tim...”. Quà sinh nhật tặng người tình như thế tôi chưa thấy bao giờ. Nó vừa ngộ nghĩnh, xa xót, vừa bản chất như chính sự hồn nhiên chứa chan của cuộc sống!

Cho đến những ngày bị bệnh nặng sắp từ giã cõi đời, viết thư cho bè bạn anh vẫn kể chuyện về cây cỏ: “Nếu chết, anh sẽ hoá thành một cây cỏ dại, cùng cỏ cây xanh tốt đất này”. Anh bảo, đời anh từ nhỏ cho đến khi đã thành nhà văn rồi vẫn chỉ là ngọn cỏ. Bao đêm viết “văn chui”, rồi vén cỏ ra bờ Hồ Tây ngồi câu trộm cá để nuôi con, để sống qua những ngày gian khó. Bao đêm lót  lá rừng mơ giấc mơ chiến sĩ. Cỏ hoa trong thơ Phùng Quán không phải là thứ trang sức, mà là biểu tượng của phẩm giá mọc lên từ niềm tâm tưởng một đời người...
Huế, Mùa xuân thứ nhất thế kỷ XXI


NGÔ MINH
(nguồn: TCSH số 143 - 01 - 2001)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TÔN PHƯƠNG LANCũng như những nhà văn mặc áo lính thuộc thế hệ đầu và tờ tạp chí Văn nghệ quân đội của họ, Trần Dần là một tên tuổi quen thuộc mà gắn với tên tuổi ông là cuốn tiểu thuyết Người người lớp lớp. Là một học sinh thành phố, khi Cách mạng tháng Tám thành công, 19 tuổi, ông bắt đầu hoạt động cách mạng rồi đầu quân tham gia kháng chiến chống Pháp và hoạt động văn nghệ.

  • Hồ Thế Hà sinh năm 1955, quê ở thị trấn Ngô Mây, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Anh tham gia quân đội từ 1978 đến 1982, chiến đấu tại Campuchia. Hồ Thế Hà tốt nghiệp khoa Ngữ văn, Đại học Tổng hợp Huế năm 1985 và được giữ lại trường. Hiện anh là Phó Giáo sư, Tiến sĩ đang giảng dạy tại khoa Ngữ văn, trường Đại học Khoa học - Đại học Huế. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Hội viên Hội Nhà báo Việt Nam. Anh đồng thời là Ủy viên Ban chấp hành Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Huế nhiệm kì: 2000 - 2005; 2005 - 2010. Chủ tịch Hội đồng Nghệ thuật Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, nhiệm kì 2000 - 2005; 2005 - 2010.

  • PHẠM PHÚ PHONGĐúng vào dịp Huế chuẩn bị cho Festival lần thứ III năm 2004, Vĩnh Quyền cho tái bản tập ký và truyện Huế mình, tập sách mới in trước đó chưa tròn một năm, năm 2003. Trước khi có Huế mình, Vĩnh Quyền đã có nhiều tác phẩm được bạn đọc chú ý như các tiểu thuyết lịch sử Vầng trăng ban ngày, Mạch nước trong, Trước rạng động, các tập truyện Người tử tù không chết, Người vẽ chân dung thế gian, Màu da thượng đế, tập bút ký Ngày và đêm Panduranga và tập tạp văn Vàng mai.

  • ...Không có sự lựa chọn nào cả, tôi đến với thơ như một nghiệp dĩ. Tôi nghĩ thơ là một thứ tôn giáo không có giáo chủ. Ở đây, các tín đồ của nó đều được mặc khải về sự bi hoan trần thế và năng lực sẻ chia những nỗi niềm thân phận. Cuộc đời vốn có cái cười và cái khóc. Người ta, ai cũng có thể cười theo kiểu cười của kẻ khác, còn khóc thì phải khóc bằng nước mắt của chính mình. Với tôi, thơ là âm bản của nước mắt...

  • …Có thể thấy gần đây có những xu hướng văn học gây “hot” trong độc giả, ví như xu hướng khai thác truyện đồng tính. Truyện của tôi xin khước từ những “cơn nóng lạnh” có tính nhất thời ấy của thị trường. Tôi bắt đầu bằng chính những câu chuyện giản đơn của cuộc sống hàng ngày, những điều giản đơn mà có thể vô tình bạn bước qua…

  • NGÔ KHAKỷ niệm 40 năm ngày Bác Hồ ra đi, chúng ta đều nhớ lại di chúc thiêng liêng của Bác để lại cho nhân dân ta. Đó là tình cảm và niềm tin của Bác đối với chúng ta ngày nay và các thế hệ mai sau.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 245 tháng 7-2009 và hết)

  • Nguyễn Khắc Phê quê ở Hương Sơn, Hà Tĩnh. Anh xuất thân trong một gia đình trí thức. Bố anh từng đậu Hoàng Giáp năm 19 tuổi. Các anh trai đều là bác sĩ, giáo sư, tiến sĩ nổi tiếng như Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Khắc Dương, Nguyễn Khắc Phi... Có người nói vui “Nguyễn Khắc Phê con nhà quan tính nhà lính”.

  • VĂN CẦM HẢI(Đọc “Ngôi nhà vắng giữa bến sông”, Tập truyện ngắn của Nguyễn Kiên - Nxb Hội Nhà văn, 2004)

  • NGUYỄN QUANG SÁNGMấy năm gần đây, dân ta đi nước ngoài càng ngày càng nhiều, đi hội nghị quốc tế, đi học, đi làm ăn, đi chơi, việc xuất ngoại đã trở nên bình thường. Đi đâu? Đi Mỹ, đi Pháp, đi Trung Quốc, Đài Loan, Singapore, Hàn Quốc... Nhà văn Văn Cầm Hải cũng đi, chuyến đi này của anh, anh không đi những nơi tôi kể trên, anh đi Tây Tạng, rất lạ đối với tôi.

  • HÀ KHÁNH LINHDân tộc ta có hơn bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước, đã xảy ra nhiều cuộc nội loạn ngoại xâm, nhiều thế hệ người Việt Nam đã cầm vũ khí ra trận giết giặc cứu nước, nhưng mãi đến cuối thế kỷ 20 những chàng trai nước Việt mới phải đi giữ nước từ xa, mới đi giữ nước mà mang trong lòng nỗi nhớ nước như tứ thơ của Phạm Sĩ Sáu.

  • LÊ VĂN THÊSau sáu năm (kể từ 2002) nhà văn Cao Hạnh được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam, (cuối năm 2008); Hội Văn học nghệ thuật Quảng Trị mới có thêm một nhà văn được kết nạp. Đó là Văn Xương.

  • NGÔ MINHTrong đợt đi Trại viết ở Khu du lịch nước nóng Thanh Tân, anh em văn nghệ chúng tôi được huyện Phong Điền cho đi dạo phá Tam Giang một ngày. Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Thế là người dẫn đường. Anh dân sở tại, thuộc lòng từng tấc đất cổ xưa của huyện.

  • PHẠM PHÚ PHONG…Làng em đây, núi rừng Trung Việt cũng là đây/Xưa kia đã hùng dũng đánh Tây/Giờ lại hiên ngang xây thành chống Mỹ/Đường Trường Sơn là đường chân lý/Đã cùng quê em kết nghĩa hẹn hò… (Quê em, 1971)

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGKể từ tập thơ đầu tay (Phía nắng lên in năm 1985), Huyền thoại Cửa Tùng (*) là tập thơ thứ mười (và là tập sách thứ 17) của Ngô Minh đã ra mắt công chúng. Dù nghề làm báo có chi phối đôi chút thì giờ của anh, có thể nói chắc rằng Ngô Minh đã đi với thơ gần chẵn hai mươi năm, và thực sự đã trở thành người bạn cố tri của thơ, giữa lúc mà những đồng nghiệp khác của anh hoặc do quá nghèo đói, hoặc do đã giàu có lên, đều đã từ giã “nghề” làm thơ.

  • Võ Quê được nhiều người biết đến khi anh 19 tuổi với phong trào xuống đường của học sinh, sinh viên các đô thị miền Nam (1966). Lúc đó, anh ở trong Ban cán sự Sinh viên, học sinh Huế. Võ Quê hoạt động hết sức nhiệt tình, năng nổ bất chấp nguy hiểm với lòng yêu nước nồng nàn và niềm tin sắt đá vào chính nghĩa.

  • PHẠM PHÚ PHONGThỉnh thoảng có thấy thơ Đinh Lăng xuất hiện trên các báo và tạp chí. Một chút Hoang tưởng mùa đông, một Chút tình với Huế, một chuyến Về lại miền quê, một lần Đối diện với nỗi buồn, hoặc cảm xúc trước một Chiếc lá rụng về đêm hay một Sớm mai thức dậy... Với một giọng điệu chân thành, giản đơn đôi khi đến mức thật thà, nhưng dễ ghi lại ấn tượng trong lòng người đọc.

  • ĐẶNG TIẾNNhà xuất bản Trẻ, phối hợp với Công ty Văn hoá Phương Nam trong 2002 đã nhẩn nha ấn hành Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường, trọn bộ bốn cuốn. Sách in đẹp, trên giấy láng, trình bày trang nhã, bìa cứng, đựng trong hộp giấy cứng.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 244 tháng 6-2009)Mến tặng các nhà văn Tô Nhuận Vỹ, Khánh Phương, Trần Thị Trường, cháuDiệu Linh, và những người bạn khác,lớn lên trong những hoàn cảnh khác.

  • NGUYỄN THỤY KHANhà thơ Quang Dũng đã tạ thế tròn 15 năm. Người lính Tây Tiến tài hoa xưa ấy chẳng những để lại cho cuộc đời bao bài thơ hay với nhịp thơ, thi ảnh rất lạ như "Tây Tiến", "Mắt người Sơn Tây"... và bao nhiêu áng văn xuôi ấn tượng, mà còn là một họa sĩ nghiệp dư với màu xanh biểu hiện trong từng khung vải. Nhưng có lẽ ngoài những đồng đội Tây Tiến của ông, ít ai ở đời lại có thể biết Quang Dũng từng viết bài hát khi cảm xúc trên đỉnh Ba Vì - quả núi như chính tầm vóc của ông trong thi ca Việt Nam hiện đại. Bài hát duy nhất này của Quang Dũng được đặt tên là "Ba Vì mờ cao".