Cô gái Huế trong thơ

16:02 02/03/2018

ĐẶNG ANH ĐÀO

Đã từng có một cô gái Huế trong thơ, có lẽ không một địa phương nào, đặc biệt là chốn đô thị kinh kỳ nào lại có thể in hình người phụ nữ của mình vào thơ đậm đến thế.

Ảnh: internet

Đây là một hiện tượng đặc biệt mà cho tới nay ta chưa lý giải. Hình ảnh “Cô gái Huế” có lúc được sưu tầm lại hẳn thành một tập thơ về những cô gái Huế, mà gốc tích của họ đã được các tác giả xác nhận.

Dường như chỉ cần gọi tên nàng lên, là thế giới của Đẹp và Thơ đã xuất hiện “Học trò xứ Quảng ra thi - Thấy cô gái Huế chân đi không đành”. Câu thơ dân gian đã chứa đựng một nét nghệ thuật khá quen thuộc: ở nhiều bài thơ khi nói đến cô gái Huế, rất ít khi nàng được miêu tả trực diện. Có thể vì cách biểu hiện ấy thích hợp với phong cách cô gái Huế chăng? Điều lạ lùng là tuy được gợi lên qua bao nét bút khác nhau, nhưng chúng ta vẫn giữ được một ấn tượng chung về cô gái Huế.

Có thể do tính chất cô đọng, ước lệ, qui phạm, mã hóa và khả năng bảo tồn tiếng nói dân tộc qua ngôn từ nên thơ đã bảo tồn lại cho ta chân dung, phong cách của con người và cái hồn dân tộc.

Trước hết, đó là một màu áo. Đoàn Phú Tứ giải thích sắc Huế của bài Màu thời gian là do câu “Màu thời gian tím ngát”. Nhưng điều đáng lưu ý là thơ lại thường giữ lại màu trắng ở tà áo cô gái Huế chứ không phải cái màu đã được gọi là “tím Huế” ấy. Huy Cận xếp bài thơ Áo trắng vào tập thơ về Huế, còn Nguyễn Bá Trạc ở tận California nhớ về Huế cho tới bây giờ vẫn gợi lại “…bọn học trò áo trắng mùa thu”, cũng như Nguyễn Duy vào những thập kỷ này vẫn khắc khoải:

Tôi về xứ Huế mưa sa
Em ơi Đồng Khánh đã là ngày xưa
Tôi về xứ Huế chiều mưa
Em ơi áo trắng bây giờ ở đâu
(1)

Một màu áo, và cùng một vẻ đẹp. Có lẽ không ai tả màu áo trắng và vẻ đẹp của cô gái Huế độc đáo bằng Hàn Mặc Tử, có thể bởi vậy, mà hình ảnh của thơ ông (thôn Vĩ) đã làm tiêu đề cho cả một tập thơ về Huế. Một gương mặt nhìn không rõ, cả tà áo cũng vậy, thế mà tất cả bóng hình của cô gái Huế đã hiển hiện:

Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên,
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc,
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
(…)
Mơ khách đường xa, khách đường xa,
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?


Tà áo trắng ấy huyền ảo tới mức không còn sắc màu khi Hàn Mặc Tử mộng thấy nàng Thương Thương, người tình chưa từng gặp “Bàn tay mềm mại nên thơ quá - Tà áo lung linh dày tợ sương”… Còn đoạn thơ trên là để tặng một người đẹp có tên thật và đã giáp mặt ! Gương mặt thấp thoáng sau cây lá kia tiêu biểu cho một vẻ đẹp của cô gái Việt Nam cổ xưa, chẳng phải chỉ vì "lá trúc che ngang"... Tôi ngờ rằng ngày nay ta chỉ còn ca ngợi vẻ đẹp của khuôn mặt trái xoan, chứ nét trên thì không thấy. Hàn Mặc Tử đã tạo cho ta một khuôn mặt độc đáo có lẽ vẻ đẹp của gương "mặt chữ điền" đặc biệt phù hợp với khăn vành giây mà quê hương của nó chính là chốn cố đô. Một cô gái bới tóc trễ như trong tranh của Tô Ngọc Vân phải có một gương mặt trái xoan.

Một tà áo, một gương mặt, một bóng dáng, nhòa phai, duyên nhiều hơn là đẹp. Cái vẻ “nhìn không ra”, “mờ nhân ảnh” ấy được lặp lại ở tất cả những bức tranh về cô gái Huế. Tố Hữu nói đến “Cô gái thẫn thờ vê áo mỏng - Nghiêng nghiêng vành nón dáng chờ ai” đã ghi lại một nét duyên của cô gái Huế chiếc nón khiến ta nhìn không rõ mặt. Có ai cười như cô gái Huế? Nữ sĩ Quỳnh Dao còn lại được với ngày nay có lẽ chỉ do một câu thơ:

Một hàng Tôn nữ cười trong nón…

E lệ, bởi vì cổ kính. Muốn tìm vẻ đẹp của Thị Bằng, của giai nhân cố đô, nhà thơ chỉ có cách:

Đập cổ kính ra tìm lấy bóng
Xếp tàn y lại để dành hơi

Bởi thế, có lẽ không nên lấy lập trường giai cấp ra để trách một số nhà thơ, hễ tả Huế lại cứ mường tượng những cái thời:

Ngày xưa không lạnh nữa, Tần phi

Tóc mây một món chiếc dao vàng
Nghìn trùng e lệ phụng quân vương
Trăm năm tình cũ lìa không hận
Thà nép mày hoa thiếp phụ chàng
                       
(Đoàn Phú Tứ)

Hoặc:

Gió cầu vương áo nàng Tôn nữ
Quai lỏng nghiêng vành chiếc nón thơ
…Mơ mộng giai nhân buông mắt nhìn
Lâu đài cung điện bóng in xa…
                       
(Đông Hồ)

Và:

Cung tần mỹ nữ ngời son phấn
Theo gót nhà vua nở gót sen
                       
(Nguyễn Bính)

Có thể gọi đó là những ước lệ, những “mã” về xứ Huế nhiều hơn là tư tưởng. Cái buồn, đó cũng là một hình ảnh của Huế đã mã hóa. Bởi thế, dù là giai nhân, cung tần, mỹ nữ, “gái hộ lăng”, vóc dáng của họ từ ấy đã tạc trên nền của một dòng sông, một bầu trời, một mùa thu và những ngày “mưa ở xứ Huế sao buồn thế”… (vẫn Nguyễn Bính). Có lẽ thơ tả cô gái Huế cười, chỉ còn lại một câu thơ của Quỳnh Dao nói trên, mà thực ra đó là nét duyên hơn là nét vui. Niềm hân hoan ở cuối bài Cô gái sông Hương của Tố Hữu mãi mãi là một viễn cảnh, bởi từ đấy không có bài thơ nào nổi tiếng về niềm vui của cô gái Huế. Đến cả bóng dáng người con gái lao động cũng đơn côi:

Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang
                                   
(Hàn Mặc Tử)

Bởi người con gái ấy là một số phận. Trong thơ Lưu Trọng Lư, người tình xưa là một cô gái Huế “nằm trong nhung lụa”, theo như giai thoại, người ta còn nói rằng tên nàng trùng với tên bông hoa của mùa thu (Giống như Hoàng Cúc của Hàn Mặc Tử). Song “tiếng thu” cũng là một khúc nhạc buồn, và “gái trong song cửa” cũng vẫn chỉ là “Người em sầu mộng của muôn đời”. Con thuyền - một hình tượng gần như ước lệ gắn với cô gái Huế - lại cũng là một biểu tượng của số phận, từ thời ca dao:

Thuyền về Đại Lược,
                        noốc(2) ngược Kim Luông
Đây là ngả rẽ của đôi dòng…

Bởi thế nên dù là tần phi, tôn nữ hay người lao động thì số phận của họ cũng được biểu tượng qua những mã chung với “người kỹ nữ” con thuyền, dòng sông, khúc hát và cả vầng trăng nữa. Xuân Diệu dệt bởi tất cả những gì đã bắt đầu từ ca dao đến Thơ Mới với Lời Kỹ Nữ đã làm bất tử hình ảnh nàng, nâng thành biểu tượng:

Em sợ lắm. Giá băng tràn mọi nẻo
Trời đầy trăng lạnh lẽo suốt xương da
Người giai nhân: bến đợi dưới cây già
Tình du khách: thuyền qua không buộc chặt


Người con gái sông Hương đó là một khúc ca đứt đoạn “Vì nghe nương tử trong câu hát - Đã chết đêm rằm theo nước xanh”… Đến đây chúng ta hiểu được vì sao cô gái Huế lại là thơ: bởi nàng là nhạc. Song thể hiện nàng bằng âm thanh, có lẽ phải nhờ nhạc sĩ Văn Cao với hai câu thơ toàn vần bằng êm dịu kết hợp với giọng nói Huế, mà nhịp phách là canh trời điểm bằng sao rơi:

Sao đàn u hoài gì mùa thu?
Sao đàn u hoài gì mùa thu?

Thuyền xuôi về bến mô thuyền hỉ
Sông trắng bờ xa lộ bóng nhà


Giọng hát sầu chi phấn nữ ơi
Từng canh trời điểm một sao rơi
Tà tà trăng lặn hiu hiu gió
Ánh lửa chài xa thấp thoáng trôi


Số phận của người suốt đời là “con gái” quả không có gì vui song không phải chỉ có người kỹ nữ phải mang cái bệnh cô đơn ấy. Những “gái hộ lăng” một hình tượng Huế - may mắn thay giờ không còn nữa - nhờ nhà thơ Xuân Tâm mà vận mệnh của họ được ghi lại. Những người… “trải qua hai thế kỷ - sóng thời gian gội tóc bạc phau phau” vẫn cứ là trinh nữ.

Để đêm đông lạnh buốt đơn hương lửa
Đến ngày lầu son nát trước lòng son

Cô gái Huế, đâu có phải chỉ là áo trắng, nón bài thơ… Họa chăng người ở Đàng ngoài mới tưởng rằng:

Chỉ thiếu chiếc kiềng vàng
Con thành “cô gái Huế”
                       
(Nguyễn Thị Thiếu Anh)

Cho đến trong ký ức, nơi quê mẹ gắn với tuổi nhỏ, hình ảnh cô gái Huế mới lớn qua thơ Nguyễn Bá Trạc vào những thập kỷ này vẫn cứ phảng phất buồn:

Chao ơi, cơn gió mùa đông cũ
Còn thổi mưa lên mấy cửa thành
Vườn nhà ông ngoại thơm hoa bưởi
Khi tóc em vừa mới chớm xanh


Như vậy, cả nỗi buồn nữa, cũng là một cái “” của Huế. Ta hiểu được vì sao hình ảnh cô gái Huế đậm nét nhất chính là trong thơ trước 1945. Vả chăng, có hai điều kiện khiến thơ ca ngày nay không còn ghi lại hình ảnh cô gái Huế trước hết là lối sống có phần giống hệt nhau giữa các địa phương ở Việt Nam sau 1975. Còn một điều kiện thứ hai có thể chưa rõ nét ở Việt Nam, song cũng sẽ tất yếu góp phần xóa mờ màu sắc địa phương: lối sống ở xã hội công nghiệp. Những siêu chợ, những phương tiện thông tin đại chúng sẽ khiến ngay cả thị hiếu, thời trang cũng xích lại gần nhau: Ngày nay, mọi cô gái đều diện quần bò, áo phông… Thơ ca, với những mã của nó - mà chốn cố đô chính là nơi được quy phạm, được ước lệ, được mã hóa rõ rệt nhất - sẽ bảo tồn, mãi mãi vẻ đẹp và nỗi buồn của thời xưa một đi không trở lại.

Đ.A.Đ
(TCSH44/01-1991) 

--------------------
(1) Ở đây xin miễn chú thích xuất xứ bài thơ để khỏi làm dứt mạch cảm hứng thơ.
(2) Tiếng Huế, cũng có nghĩa là thuyền.





 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN THÁI HỌCCó lẽ chưa bao giờ các vấn đề cơ bản của lý luận văn nghệ lại được đưa lên diễn đàn một cách công khai và dân chủ như khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. Vấn đề tuyên truyền trong nghệ thuật tuy chưa nêu thành một mục riêng để thảo luận, nhưng ở nhiều bài viết và hội nghị, chúng ta thấy vẫn thường được nhắc tới.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO...Một câu ngạn ngữ Pháp nói rằng: “Khen đúng là bạn, chê đúng là thầy”. Câu ngạn ngữ này đúng trong mọi trường hợp, và riêng với văn học, Hoài Thanh còn vận thêm rằng: “Khen đúng là bạn của nhà văn, chê đúng là thầy của nhà văn”...

  • BẢO CHI                 (lược thuật)Từ chiều 13 đến chiều 15-8-2003, Hội nghị Lý luận – Phê bình văn học (LL-PBVH) toàn quốc do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức đã diễn ra tại khu nghỉ mát Tam Đảo có độ cao 1.000 mét và nhiệt độ lý tưởng 23oc. Đây là hội nghị nhìn lại công tác LL-PBVH 28 năm qua kể từ ngày đất nước thống nhất và sau 54 năm Hội nghị tranh luận Văn nghệ tại Việt Bắc (1949). Gần 200 nhà LL-PB, nhà văn, nhà thơ, nhà báo và khách mời họp mặt ở đây đã làm nóng lên chút đỉnh không khí ôn hoà của xứ lạnh triền miên...

  • ĐỖ LAI THÚY                Văn là người                                  (Buffon)Cuốn sách thứ hai của phê bình văn học Việt Nam, sau Phê bình và cảo luận (1933) của Thiếu Sơn, thuộc về Trần Thanh Mại (1911 - 1965): Trông dòng sông Vị (1936). Và, mặc dù đứng thứ hai, nhưng cuốn sách lại mở đầu cho một phương pháp phê bình văn học mới: phê bình tiểu sử học.

  • ĐẶNG TIẾNThuật ngữ Thi Học dùng ở đây để biểu đạt những kiến thức, suy nghĩ về Thơ, qua nhiều dạng thức và trong quá trình của nó. Chữ Pháp là Poétique, hiểu theo nghĩa hẹp và cổ điển, áp dụng chủ yếu vào văn vần. Dùng theo nghĩa rộng và hiện đại, theo quan điểm của Valéry, được Jakobson phát triển về sau, từ Poétique được dịch là Thi Pháp, chỉ chức năng thẩm mỹ của ngôn từ, và nới rộng ra những hệ thống ký hiệu khác, là lý thuyết về tính nghệ thuật nói chung. Thi Học, giới hạn trong phạm vi thi ca, là một bộ phận nhỏ của Thi Pháp.

  • TRẦN CAO SƠNTriều Nguyễn tồn tại gần 150 năm, kể từ khi Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế với niên hiệu Gia Long - năm1802, tạo dựng một đế chế tập quyền trên toàn bộ lãnh thổ mà trước đó chưa hề có. Trải qua một thế kỷ rưỡi tồn tại, vinh hoa và tủi nhục, Triều đại Nguyễn là một thực thể cấu thành trong lịch sử Đại Việt. Những cái do triều đình Nhà Nguyễn mang lại cũng rất có ý nghĩa, đó là chấm dứt cuộc nội chiến, tranh giành quyền lực, xương trắng máu đào liên miên mấy thế kỷ, kiến tạo bộ máy quản lý hành chính trung ương tập quyền thống nhất mà Quang Trung - Nguyễn Huệ đã dày công vun đắp gây dựng trước đó. Dân tộc đã phải trải qua những năm tháng bi hùng với nhiều điều nuối tiếc, đáng bàn đáng nói ngay ở chính hôm nay. Song lịch sử là lịch sử, đó là một hiện thực khách quan.

  • TRẦN HUYỀN SÂMNếu nghệ thuật là một sự ngạc nhiên thì chính tiểu thuyết Thập giá giữa rừng sâu là sự minh định rõ nhất cho điều này. Tôi bàng hoàng nhận ra rằng, luận thuyết: con người cao quý và có tình hơn động vật đã không hoàn toàn đúng như lâu nay chúng ta vẫn tin tưởng một cách hồn nhiên. Con người có nguy cơ sa xuống hàng thú vật, thậm chí không bằng thú vật, nếu không ý thức được giá trị đích thực của Con Người với cái tên viết hoa của nó. Phải chăng, đây chính là lời nói tối hậu với con người, về con người của tác phẩm này?

  • HOÀNG NGỌC HIẾN           ...Từ những nguồn khác nhau: đạo đức học, mỹ học, triết học xã hội-chính trị, triết học xã hội-văn hoá... cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình văn học là nỗ lực vượt lên trên những thành kiến và định kiến hẹp hòi trong sinh hoạt cũng như trong học thuật. Những thành kiến, định kiến này có khi lại được xem như những điều hiển nhiên. Mà đã là “hiển nhiên” thì khỏi phải bàn. Đây cũng là một thói quen khá phổ biến trong nhân loại. Cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình có khi bắt nguồn từ suy nghĩ về chính những điều “hiển nhiên” như vậy...

  • THÁI DOÃN HIỂUVào đời, Lưu Quang Vũ bắt đầu làm thơ, viết truyện, rồi dừng lại nơi kịch. Ở thể loại nào, tài năng của Vũ cũng in dấu ấn đậm đà làm cho bạn đọc cả nước đi từ ngạc nhiên đến sửng sốt. Thơ Lưu Quang Vũ một thời được lớp trẻ say sưa chép và thuộc. Kịch Lưu Quang Vũ một thời gần như thống trị sân khấu cả nước.

  • TRẦN THANH ĐẠMTrong lịch sử nước ta cũng như nhiều nước khác, thời cổ - trung đại cũng như thời cận - hiện đại, mỗi khi một quốc gia, dân tộc bị xâm lược và chinh phục bởi các thế lực bên ngoài thì trong nước bao giờ cũng phát sinh hai lực lượng: một lực lượng tìm cách kháng cự lại nạn ngoại xâm và một lực lượng khác đứng ra hợp tác với kẻ ngoại xâm.

  • ĐỖ LAI THUÝLTS: Trong số tháng 5-2003, Sông Hương đã dành một số trang để anh em văn nghệ sĩ Huế "tưởng niệm" nhà văn Nguyễn Đình Thi vừa qua đời. Song, đấy chỉ mới là việc nghĩa.Là một cây đại thụ của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam, Nguyễn Đình Thi toả bóng trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Bằng chứng qua các bài viết về ông sau đây, Sông Hương xin trân trọng dành thêm trang để giới thiệu sâu hơn, có hệ thống hơn về Nguyễn Đình Thi cùng bạn đọc.

  • ĐẶNG TIẾN…Nguyễn Đình Thi quê quán Hà Nội, nhưng sinh tại Luang Prabang, Lào, ngày 20/12/1924. Từ 1931 theo gia đình về nước, học tại Hải Phòng, Hà Nội. Năm 1941 tham gia Thanh Niên cưú quốc, 1943 tham gia Văn hóa cứu quốc, bị Pháp bắt nhiều lần. Năm 1945, tham dự Quốc Dân Đại hội Tân Trào, vào Ủy ban Giải phóng Dân tộc. Năm 1946, là đại biểu Quốc hội trẻ nhất, làm Ủy viên Thường trực Quốc hội, khóa I…

  • HỒ THẾ HÀ          Hai mươi lăm năm thơ Huế (1975 - 2000) là một chặng đường không dài, nhưng nó diễn ra trong một bối cảnh lịch sử - thi ca đầy phức tạp. Cuộc sống hàng ngày đặt ra cho thể loại những yêu cầu mới, mà thơ ca phải làm tròn sứ mệnh cao cả với tư cách là một hoạt động nhận thức nhạy bén nhất. Những khó khăn là chuyện đương nhiên, nhưng cũng phải thấy rằng bí quyết sinh tồn của chính thể loại cũng không chịu bó tay. Hơn nữa, đã đặt ra yêu cầu thì chính cuộc sống cũng đã chuẩn bị những tiền đề để thực hiện. Nếu không, mối quan hệ này bị phá vỡ.

  • JAMES REEVESGần như điều mà tôi hoặc bất kỳ nhà văn nào khác có thể nói về một bài thơ đều giống nhau khi nêu ra ấn tượng về điều gì đấy được in trên giấy. Tôi muốn nhấn mạnh rằng đây không phải là toàn bộ sự thật. Việc in trên giấy thực ra là một bài thơ gián tiếp. Sẽ dễ dàng thấy điều này nếu chúng ta đang nói về hội hoạ hoặc điêu khắc.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP...Nguyễn Huy Thiệp không phải là người duy nhất đổi mới phương thức trần thuật. Trước ông đã có Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng... tích cực mở đường. Nhưng phải đến Nguyễn Huy Thiệp thì sự khai phóng về tư tưởng nghệ thuật mới được thể hiện một cách đậm nét. Tất cả được Nguyễn Huy Thiệp kiến tạo qua một trò chơi đầy tính bất ngờ. Giống như người nghệ sĩ ba lê tài năng, Nguyễn Huy Thiệp trình diễn một thế giới đa sắc trên đầu những đầu mũi ngón chân. Những ngón chân ấy bám trụ vào hiện thực một cách tinh diệu, xoay chuyển một cách nhịp nhàng với những vòng quay, những vũ điệu ngôn từ...

  • PHAN NGỌC THUTrong nền văn học Việt Nam thế kỷ XX, Xuân Diệu (1916-1985) là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất, đồng thời cũng là nhà phê bình văn học kiệt xuất. Từ những bài tranh luận văn học sôi nổi thời Thơ Mới (1932-1945) đến Tiếng thơ (1951), Những bước đường tư tưởng của tôi (1958); từ Phê bình giới thiệu thơ (1960) đến Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ (1961), Dao có mài mới sắc (1963), Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy (1978), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập I (1981), tập II (1982) và Công việc làm thơ (1984)... "chỉ tính riêng các tác phẩm lý luận phê bình, đã có thể gọi Xuân Diệu là một đại gia"(1)

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng đáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v..v...

  • HÀ KHÁNH CHINgày 20 - 3 - 2003, siêu cường lớn nhất mọi thời đại là đế quốc Hoa Kỳ đã mở đầu cuộc chiến tranh kỳ quái nhất trong lịch sử bằng cách tấn công Iraq sau khi đã bắt quốc gia này phải tự phá huỷ vũ khí tự vệ của chính họ. Đó là bài học chưa hề thấy về chút hy vọng cuối cùng mà lương tri nhân loại có thể đòi hỏi. Để có thể hiểu rõ hơn những gì đang xảy ra hôm nay - có lẽ cũng rất cần ôn lại một trong những vấn đề lớn nhất mà loài người có thể nghĩ tới: cuộc chiến tranh Việt Nam đã kết thúc cách đây gần 30 năm.

  • HOÀNG ĐĂNG KHOA Văn học Việt từ sau 1975, nhất là từ thời kỳ đổi mới, là một quá trình văn học rất phong phú, đa dạng và không ít phức tạp, lại còn đang tiếp diễn. Cuốn sách Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy ra đời đáp ứng nhu cầu mang tính thời sự: nhu cầu nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, toàn diện về tiến trình văn học ba mươi năm qua, chuẩn bị cho sự ra đời của những công trình văn học sử và những chuyên khảo về giai đoạn văn học này.

  • NGUYỄN QUANG HÀTrong đời có những bài thơ người ta quên, mà chỉ nhớ một câu nằm lòng. Bởi đó là những câu thơ thực sự, những câu thơ thi sĩ. Từ xưa đến nay, đã có rất nhiều định nghĩa về thơ: Thơ là tiếng hát của trái tim; Thơ là hạt muối kết tinh của tình cảm; Thơ là phút giây rung động của tâm hồn... Nói chung, những định nghĩa ấy cho ta hiểu rằng ở đâu có được sự rung động của trái tim thì ở đó có thơ.