Cô gái Huế trong thơ

16:02 02/03/2018

ĐẶNG ANH ĐÀO

Đã từng có một cô gái Huế trong thơ, có lẽ không một địa phương nào, đặc biệt là chốn đô thị kinh kỳ nào lại có thể in hình người phụ nữ của mình vào thơ đậm đến thế.

Ảnh: internet

Đây là một hiện tượng đặc biệt mà cho tới nay ta chưa lý giải. Hình ảnh “Cô gái Huế” có lúc được sưu tầm lại hẳn thành một tập thơ về những cô gái Huế, mà gốc tích của họ đã được các tác giả xác nhận.

Dường như chỉ cần gọi tên nàng lên, là thế giới của Đẹp và Thơ đã xuất hiện “Học trò xứ Quảng ra thi - Thấy cô gái Huế chân đi không đành”. Câu thơ dân gian đã chứa đựng một nét nghệ thuật khá quen thuộc: ở nhiều bài thơ khi nói đến cô gái Huế, rất ít khi nàng được miêu tả trực diện. Có thể vì cách biểu hiện ấy thích hợp với phong cách cô gái Huế chăng? Điều lạ lùng là tuy được gợi lên qua bao nét bút khác nhau, nhưng chúng ta vẫn giữ được một ấn tượng chung về cô gái Huế.

Có thể do tính chất cô đọng, ước lệ, qui phạm, mã hóa và khả năng bảo tồn tiếng nói dân tộc qua ngôn từ nên thơ đã bảo tồn lại cho ta chân dung, phong cách của con người và cái hồn dân tộc.

Trước hết, đó là một màu áo. Đoàn Phú Tứ giải thích sắc Huế của bài Màu thời gian là do câu “Màu thời gian tím ngát”. Nhưng điều đáng lưu ý là thơ lại thường giữ lại màu trắng ở tà áo cô gái Huế chứ không phải cái màu đã được gọi là “tím Huế” ấy. Huy Cận xếp bài thơ Áo trắng vào tập thơ về Huế, còn Nguyễn Bá Trạc ở tận California nhớ về Huế cho tới bây giờ vẫn gợi lại “…bọn học trò áo trắng mùa thu”, cũng như Nguyễn Duy vào những thập kỷ này vẫn khắc khoải:

Tôi về xứ Huế mưa sa
Em ơi Đồng Khánh đã là ngày xưa
Tôi về xứ Huế chiều mưa
Em ơi áo trắng bây giờ ở đâu
(1)

Một màu áo, và cùng một vẻ đẹp. Có lẽ không ai tả màu áo trắng và vẻ đẹp của cô gái Huế độc đáo bằng Hàn Mặc Tử, có thể bởi vậy, mà hình ảnh của thơ ông (thôn Vĩ) đã làm tiêu đề cho cả một tập thơ về Huế. Một gương mặt nhìn không rõ, cả tà áo cũng vậy, thế mà tất cả bóng hình của cô gái Huế đã hiển hiện:

Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên,
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc,
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
(…)
Mơ khách đường xa, khách đường xa,
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?


Tà áo trắng ấy huyền ảo tới mức không còn sắc màu khi Hàn Mặc Tử mộng thấy nàng Thương Thương, người tình chưa từng gặp “Bàn tay mềm mại nên thơ quá - Tà áo lung linh dày tợ sương”… Còn đoạn thơ trên là để tặng một người đẹp có tên thật và đã giáp mặt ! Gương mặt thấp thoáng sau cây lá kia tiêu biểu cho một vẻ đẹp của cô gái Việt Nam cổ xưa, chẳng phải chỉ vì "lá trúc che ngang"... Tôi ngờ rằng ngày nay ta chỉ còn ca ngợi vẻ đẹp của khuôn mặt trái xoan, chứ nét trên thì không thấy. Hàn Mặc Tử đã tạo cho ta một khuôn mặt độc đáo có lẽ vẻ đẹp của gương "mặt chữ điền" đặc biệt phù hợp với khăn vành giây mà quê hương của nó chính là chốn cố đô. Một cô gái bới tóc trễ như trong tranh của Tô Ngọc Vân phải có một gương mặt trái xoan.

Một tà áo, một gương mặt, một bóng dáng, nhòa phai, duyên nhiều hơn là đẹp. Cái vẻ “nhìn không ra”, “mờ nhân ảnh” ấy được lặp lại ở tất cả những bức tranh về cô gái Huế. Tố Hữu nói đến “Cô gái thẫn thờ vê áo mỏng - Nghiêng nghiêng vành nón dáng chờ ai” đã ghi lại một nét duyên của cô gái Huế chiếc nón khiến ta nhìn không rõ mặt. Có ai cười như cô gái Huế? Nữ sĩ Quỳnh Dao còn lại được với ngày nay có lẽ chỉ do một câu thơ:

Một hàng Tôn nữ cười trong nón…

E lệ, bởi vì cổ kính. Muốn tìm vẻ đẹp của Thị Bằng, của giai nhân cố đô, nhà thơ chỉ có cách:

Đập cổ kính ra tìm lấy bóng
Xếp tàn y lại để dành hơi

Bởi thế, có lẽ không nên lấy lập trường giai cấp ra để trách một số nhà thơ, hễ tả Huế lại cứ mường tượng những cái thời:

Ngày xưa không lạnh nữa, Tần phi

Tóc mây một món chiếc dao vàng
Nghìn trùng e lệ phụng quân vương
Trăm năm tình cũ lìa không hận
Thà nép mày hoa thiếp phụ chàng
                       
(Đoàn Phú Tứ)

Hoặc:

Gió cầu vương áo nàng Tôn nữ
Quai lỏng nghiêng vành chiếc nón thơ
…Mơ mộng giai nhân buông mắt nhìn
Lâu đài cung điện bóng in xa…
                       
(Đông Hồ)

Và:

Cung tần mỹ nữ ngời son phấn
Theo gót nhà vua nở gót sen
                       
(Nguyễn Bính)

Có thể gọi đó là những ước lệ, những “mã” về xứ Huế nhiều hơn là tư tưởng. Cái buồn, đó cũng là một hình ảnh của Huế đã mã hóa. Bởi thế, dù là giai nhân, cung tần, mỹ nữ, “gái hộ lăng”, vóc dáng của họ từ ấy đã tạc trên nền của một dòng sông, một bầu trời, một mùa thu và những ngày “mưa ở xứ Huế sao buồn thế”… (vẫn Nguyễn Bính). Có lẽ thơ tả cô gái Huế cười, chỉ còn lại một câu thơ của Quỳnh Dao nói trên, mà thực ra đó là nét duyên hơn là nét vui. Niềm hân hoan ở cuối bài Cô gái sông Hương của Tố Hữu mãi mãi là một viễn cảnh, bởi từ đấy không có bài thơ nào nổi tiếng về niềm vui của cô gái Huế. Đến cả bóng dáng người con gái lao động cũng đơn côi:

Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang
                                   
(Hàn Mặc Tử)

Bởi người con gái ấy là một số phận. Trong thơ Lưu Trọng Lư, người tình xưa là một cô gái Huế “nằm trong nhung lụa”, theo như giai thoại, người ta còn nói rằng tên nàng trùng với tên bông hoa của mùa thu (Giống như Hoàng Cúc của Hàn Mặc Tử). Song “tiếng thu” cũng là một khúc nhạc buồn, và “gái trong song cửa” cũng vẫn chỉ là “Người em sầu mộng của muôn đời”. Con thuyền - một hình tượng gần như ước lệ gắn với cô gái Huế - lại cũng là một biểu tượng của số phận, từ thời ca dao:

Thuyền về Đại Lược,
                        noốc(2) ngược Kim Luông
Đây là ngả rẽ của đôi dòng…

Bởi thế nên dù là tần phi, tôn nữ hay người lao động thì số phận của họ cũng được biểu tượng qua những mã chung với “người kỹ nữ” con thuyền, dòng sông, khúc hát và cả vầng trăng nữa. Xuân Diệu dệt bởi tất cả những gì đã bắt đầu từ ca dao đến Thơ Mới với Lời Kỹ Nữ đã làm bất tử hình ảnh nàng, nâng thành biểu tượng:

Em sợ lắm. Giá băng tràn mọi nẻo
Trời đầy trăng lạnh lẽo suốt xương da
Người giai nhân: bến đợi dưới cây già
Tình du khách: thuyền qua không buộc chặt


Người con gái sông Hương đó là một khúc ca đứt đoạn “Vì nghe nương tử trong câu hát - Đã chết đêm rằm theo nước xanh”… Đến đây chúng ta hiểu được vì sao cô gái Huế lại là thơ: bởi nàng là nhạc. Song thể hiện nàng bằng âm thanh, có lẽ phải nhờ nhạc sĩ Văn Cao với hai câu thơ toàn vần bằng êm dịu kết hợp với giọng nói Huế, mà nhịp phách là canh trời điểm bằng sao rơi:

Sao đàn u hoài gì mùa thu?
Sao đàn u hoài gì mùa thu?

Thuyền xuôi về bến mô thuyền hỉ
Sông trắng bờ xa lộ bóng nhà


Giọng hát sầu chi phấn nữ ơi
Từng canh trời điểm một sao rơi
Tà tà trăng lặn hiu hiu gió
Ánh lửa chài xa thấp thoáng trôi


Số phận của người suốt đời là “con gái” quả không có gì vui song không phải chỉ có người kỹ nữ phải mang cái bệnh cô đơn ấy. Những “gái hộ lăng” một hình tượng Huế - may mắn thay giờ không còn nữa - nhờ nhà thơ Xuân Tâm mà vận mệnh của họ được ghi lại. Những người… “trải qua hai thế kỷ - sóng thời gian gội tóc bạc phau phau” vẫn cứ là trinh nữ.

Để đêm đông lạnh buốt đơn hương lửa
Đến ngày lầu son nát trước lòng son

Cô gái Huế, đâu có phải chỉ là áo trắng, nón bài thơ… Họa chăng người ở Đàng ngoài mới tưởng rằng:

Chỉ thiếu chiếc kiềng vàng
Con thành “cô gái Huế”
                       
(Nguyễn Thị Thiếu Anh)

Cho đến trong ký ức, nơi quê mẹ gắn với tuổi nhỏ, hình ảnh cô gái Huế mới lớn qua thơ Nguyễn Bá Trạc vào những thập kỷ này vẫn cứ phảng phất buồn:

Chao ơi, cơn gió mùa đông cũ
Còn thổi mưa lên mấy cửa thành
Vườn nhà ông ngoại thơm hoa bưởi
Khi tóc em vừa mới chớm xanh


Như vậy, cả nỗi buồn nữa, cũng là một cái “” của Huế. Ta hiểu được vì sao hình ảnh cô gái Huế đậm nét nhất chính là trong thơ trước 1945. Vả chăng, có hai điều kiện khiến thơ ca ngày nay không còn ghi lại hình ảnh cô gái Huế trước hết là lối sống có phần giống hệt nhau giữa các địa phương ở Việt Nam sau 1975. Còn một điều kiện thứ hai có thể chưa rõ nét ở Việt Nam, song cũng sẽ tất yếu góp phần xóa mờ màu sắc địa phương: lối sống ở xã hội công nghiệp. Những siêu chợ, những phương tiện thông tin đại chúng sẽ khiến ngay cả thị hiếu, thời trang cũng xích lại gần nhau: Ngày nay, mọi cô gái đều diện quần bò, áo phông… Thơ ca, với những mã của nó - mà chốn cố đô chính là nơi được quy phạm, được ước lệ, được mã hóa rõ rệt nhất - sẽ bảo tồn, mãi mãi vẻ đẹp và nỗi buồn của thời xưa một đi không trở lại.

Đ.A.Đ
(TCSH44/01-1991) 

--------------------
(1) Ở đây xin miễn chú thích xuất xứ bài thơ để khỏi làm dứt mạch cảm hứng thơ.
(2) Tiếng Huế, cũng có nghĩa là thuyền.





 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • YẾN THANH

    Trong bài viết này, chúng tôi muốn nhìn nhận những cống hiến của GS.TS Lê Huy Bắc trên lĩnh vực khoa học, đây là những thành tựu mà theo chúng tôi, vừa có tính lan tỏa, lại vừa có tính bền vững. Bởi vì, có thể nhiều học viên, nhà nghiên cứu dù không trực tiếp được nhà khoa học giảng dạy, hướng dẫn, nhưng từ những công trình, bài báo khoa học, vẫn được kế thừa và chịu sự tác động từ người thầy đó. 

  • TRIỆU SƠN

    Bài này nhằm trao đổi với tác giả Nguyễn Thị Tịnh Thy về những bất cập của nghiên cứu, phê bình văn học hiện nay nhân đọc bài “Những bất cập và thái quá trong nghiên cứu văn học hiện nay” của tác giả trên Sông Hương, 294/08-13.

  • PHAN TRỌNG HOÀNG LINH

    Được Bakhtin đề xuất trong công trình nghiên cứu về sáng tác của Frăngxoa Rabơle, thuật ngữ chủ nghĩa hiện thực nghịch dị (grotesque realism) là sự định danh ước lệ cho một kiểu hình tượng đặc thù (hay phương pháp xây dựng hình tượng đặc thù) của nền văn hóa trào tiếu dân gian, kiểu hình tượng nghịch dị.

  • LTS: Phạm Phú Uyên Châu, bút danh Meggie Phạm, sinh năm 1991, hội viên trẻ nhất của Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế, tác giả của bộ truyện dài liên hoàn do Nxb. Trẻ ấn hành: Hoàng tử và em (2011, tái bản 2011), Giám đốc và em (2011, tái bản 2012), Chàng và em (2012, tái bản 2012), Người xa lạ và em (2012) và Tôi và em (đang in).

  • ĐOÀN ÁNH DƯƠNG

    Trong Điều kiện hậu hiện đại, Jean-Francois Lyotard cho rằng: “Bởi vì người ta không thể biết điều gì xảy ra cho tri thức, tức là sự phát triển và truyền bá nó hiện nay đang gặp phải những vấn đề gì, nếu không biết gì về xã hội trong đó nó diễn ra.

  • ĐANIEN GRANIN

    Năm ngoái, một tai họa xảy ra với tôi. Tôi đi trên đường phố, bị trượt chân và ngã xuống... Ngã thật thảm hại: mặt áp xuống, mũi toạc ra, tay bị tréo lên vai. Lúc đó khoảng bảy giờ chiều, ở trung tâm thành phố, trên đại lộ Kirov, cách ngôi nhà ở không xa.

  • PHẠM QUANG TRUNG

    Bàn về hiệu quả của lý luận trong quan hệ với sáng tác, cần phân tách xu hướng lý luận dành cho tìm hiểu sáng tác của nhà văn (hướng nhiều hơn tới người nghiên cứu) với xu hướng lý luận dành cho sáng tác của nhà văn (hướng nhiều hơn tới người sáng tạo).

  • HÀ VĂN LƯỠNG  

    Trong thể loại tự sự, người trần thuật giữ một vai trò quan trọng, góp phần làm nên giá trị nghệ thuật tự sự của tác phẩm văn học.

  • NGUYỄN THỊ TỊNH THY

    Đời sống văn học không thể thiếu phê bình, nghiên cứu. Nếu xem “tác phẩm văn học như là quá trình”(1) thì phê bình và nghiên cứu là một khâu quan trọng trong chuỗi quá trình đó.

  • PHAN TUẤN ANH

    1. Nguyên tắc thẩm mỹ facebook và lối đọc status - entry
    Những tác phẩm của Đặng Thân như Ma net mà đặc biệt là 3339 [những mảnh hồn trần] từ khi ra đời đến nay đã trở thành những “cú sốc văn hóa” mini trong đời sống văn học Việt Nam.

  • BÙI BÍCH HẠNH

    Cất tiếng như một định mệnh của quyền năng nghệ thuật giữa phố thị thơ miền Nam những năm 50 - 60 thế kỉ XX, người thơ Thanh Tâm Tuyền, bằng tuyên ngôn nghệ thuật khởi từ ca dao sang tự do, đã tham dự vào thi đàn vốn nhiều biến động với tư cách một hữu thể mưu cầu phục sinh.

  • NGUYỄN QUANG HUY

    Phạm Thái (1777 - 1813) là một khuôn mặt khá đặc biệt trong thơ văn Việt Nam giai đoạn cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX. Đặc biệt trong thời đại ông sinh ra và ứng xử với nó; đặc biệt trong cách thể hiện thế giới nghệ thuật nhiều cá tính, nhiều gương mặt; đặc biệt trong vũ trụ mộng trước cuộc đời; đặc biệt trong cách thế tồn tại tài hoa mệnh bạc của ông; đặc biệt hơn là thơ văn của ông chưa được lưu ý phân tích ở chiều sâu tâm lí, chiều sâu thẩm mĩ.

  • THÁI DOÃN HIỂU

    Thời kỳ còn sống lang thang Kazan, nhà văn trẻ tài năng M. Gorky luôn làm phiền cho trật tự của chính quyền, cảnh sát Nga Hoàng tống lao ông. Trong tù, ông vẫn viết truyện, tuồn ra ngoài in đều đều trên các mặt báo.

  • INRASARA 

    1.
    Ch. Fredriksson trả lời cuộc phỏng vấn, cho rằng: “Ý tưởng dường như có tính tiên quyết, xem người nghệ sĩ làm gì và làm như thế nào với tác phẩm của mình, để làm sao cho tác phẩm ấy có hiệu quả nhất khi đến với công chúng.

  • NGUYỄN BÀN 

    Hồi còn học trung học, khi đọc Truyện Kiều, chúng tôi đinh ninh rằng Thúy Kiều gặp Kim Trọng lúc tuổi “xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê”, nghĩa là khoảng 15, 16 tuổi. Nay đọc cuốn Tìm hiểu Truyện Kiều của tác giả Lê Quế (Nxb. Nghệ An, 2004) thì thấy Thúy Kiều gặp Kim Trọng lúc 22 tuổi.

  • PHẠM PHÚ PHONG 

    Nguyễn Hữu Sơn là nhà nghiên cứu văn học trung đại Việt Nam, là phó giáo sư, Tiến sĩ, Phó Viện trưởng Viện Văn học và Phó Tổng Biên tập Tạp chí Nghiên cứu Văn học.

  • LUÂN NGUYỄN

    Trần Đức Thảo, với người Việt, hiển nhiên là một trí tuệ hiếm có. Trong tín niệm của tôi, ông còn là một trí thức chân chính. Một trí thức dân tộc.

  • MAI VĂN HOAN

    Trong những tháng ngày ở Châu Thai chờ đợi Từ Hải, sau khi diễn tả nỗi nhớ của Kiều đối với quê nhà, cha mẹ, Nguyễn Du viết: Tiếc thay chút nghĩa cũ càng/ Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng.

  • NGUYỄN HỒNG TRÂN

    Vua Minh Mạng (tên hoàng tử là Nguyễn Phúc Đảm) lên làm vua năm Canh Thìn (1820). Ông là một vị vua có tri thức uyên thâm, biết nhìn xa thấy rộng.

  • VĂN NHÂN

    Trong bài thơ viết về dòng sông Hương, Nguyễn Trọng Tạo có bốn câu khá hay: Con sông đám cưới Huyền Trân/ Bỏ quên giải lụa phù vân trên nguồn/ Hèn chi thơm thảo nỗi buồn/ Niềm riêng nhuộm tím hoàng hôn đến giờ (Con sông huyền thoại).