Chân dung Léopold Cadière - Tranh: Họa sỹ Phan Ngọc Minh
Léopold Cadière sinh ngày 14-2-1869 tại ngôi làng nhỏ “Les Pinchinats” gần d’Aix-en-Provence. Cha và ông ngoại của L.Cadière là những nông trang viên nghèo. Đến tuổi đi học L.Cadière được gửi học ở trường làng và được thầy bạn, tất thảy đều quý mến. Cha chết khi cậu mới học lớp 7, nhờ học lực giỏi, Paul- người ta thường gọi như thế thay vì Léopold - được học bổng nội trú để tiếp tục học hành… Cậu đã có cơ hội được đào tạo với các bậc thầy nổi tiếng như Le Hir, Vigouroux, Bacuez (Dòng Saint Sulpice), các giáo sư linh mục như Fouard, Le Camus, Battifol, các nhà thông thái dòng Biển Đức (Bénédictin) như Dom Guéranger, Dom Cabrol… Để có thể làm mục vụ ở Việt Nam, chàng thanh niên trẻ tuổi này đã học tiếng Việt một thời gian ngắn ở Paris, rồi học trên tàu trong hành trình đến Việt Nam, cập bến Đà Nẵng ngày 03-12-1892, năm 23 tuổi. Thời tiết xấu chưa cho phép ông về được Huế; lợi dụng thời gian này để học thêm tiếng Việt: “Học tiếng Việt, không phải để nói tiếng Việt giỏi giống như họ mà còn phải tâm tư nghĩ suy như họ”(1) Tuy nôn nóng, mong đợi nhưng thừa sai L.Cadière phải chờ đến 18 ngày, vì không thể chờ lâu hơn, cuối cùng phải thuê bốn người khuân vác các vật dụng tùy thân và do một người dẫn đường vượt đèo Hải Vân đến kinh đô Thuận Hóa, còn hành lý gửi xà lan chuyên chở sau. Vượt đèo, ngang qua các họ Lăng Cô, Phú Gia, Thừa Lưu, Phước Tượng (2) rồi đến Huế. Giám mục Caspar hồi đó cai quản Địa phận Huế sớm nhận ra vốn kiến thức sống động thông minh của L.Cadière nên hướng L.Cadière về các nghiên cứu ngôn ngữ, lịch sử và dân tộc học tôn giáo. Kể từ đó sự nghiệp của L.Cadière được vạch ra. Trước khi được bổ nhiệm làm cha sở, L.Cadière giảng dạy từ 1893-1895 tại Tiểu Chủng viện An Ninh, một địa điểm về phía Bắc Huế cách chừng 100 kilômét, rồi Đại Chủng Viện Huế. Suốt thời gian đó, L.Cadière lần lượt làm giáo sư về các môn tu từ học, dạy triết và thần học tín lý. Rồi từ tháng 10-1895, L.Cadière được chỉ định tạm thời ở xứ Tam Tòa, một giáo xứ xa xôi trong vùng Quảng Bình. Ở Tam Tòa được 14 tháng, L.Cadière tâm đắc với vùng Cù Lạc, ở hữu ngạn của Nguồn Sơn, một phụ lưu của sông Gianh. Sáu năm ở nơi hẻo lánh và nghèo nàn này đã giúp L.Cadière hoàn thành nhiều công trình nghiên cứu nhất về truyền thống địa phương. Vất vả mệt nhọc vì công việc đã khiến sức khỏe suy giảm, nên vào năm 1901, L.Cadière được phép đi nghỉ sáu tháng ở Hồng Kông (3). Sau thời gian điều dưỡng, trở lại Cù Lạc, giám mục Caspar chấp thuận đề nghị chia giáo xứ Cù Lạc thành hai và L.Cadière lãnh phần quản nhiệm phía đông mà nhà xứ đặt tại họ Bồ Khê trong thời gian hai năm, trước khi được thuyên chuyển về làm cha sở họ đạo Cổ Vưu (Trí Bưu) kiêm nhiệm Hạt Dinh Cát từ ngày 28-06-1904 (4). Đây là nơi có nhiều di tích lịch sử, mà tại đó L.Cadière đã thu thập được nhiều tư liệu về các dinh trấn của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong, về sự du nhập của Thiên Chúa giáo vào Việt Nam và những dấu tích của vương quốc Chămpa. Do làm việc quá sức, cuối năm 1910 ông được phép về dưỡng bệnh tại Pháp (5). Trong thời gian ở Pháp, L.Cadière được mời đến đại học Louvain để tham dự tuần lễ Dân tộc học tôn giáo. L.Cadière thuyết trình hai bản tham luận về “Chỉ dẫn thực hành cho các vị thừa sai khi nhận xét về tôn giáo” và về “Các tôn giáo ở Annam”. Hai bản tham luận này, L.Cadière được các giới thức giả đặc biệt quan tâm. Tranh thủ thời gian còn lại ở châu Âu, Trường Viễn Đông Bác Cổ đã giao cho L.Cadière truy tầm trong các văn khố về các bang giao trước đây giữa châu Âu và Annam. Để làm việc này, L.Cadière đi Rôma tìm được trong thư viện Vatican một thủ bản chép tay cuốn tự điển của Alexandre de Rhodes. Nhiều tác phẩm khác còn ghi dấu những cột mốc đối với lịch sử hình thành và biến đổi trong việc ký âm chữ Quốc ngữ theo mẫu tự la-tinh. L.Cadière còn tiếp tục nghiên cứu tại thư viện Victor Emmanuel và thư viện Thánh Bộ truyền giáo. Tại Paris, L.Cadière đã lục lọi tìm kiếm các thư từ trao đổi giữa Gia Long và các sĩ quan Pháp vốn đã tháp tùng cùng giám mục d’Adran, tức Pigneau de Béhaine (Bá Đa Lộc) qua Nam kỳ vào thế kỷ XVIII, ngoài ra còn tìm được tập hồi ký của Bénigne Vachet viết về Đàng Trong. Sau khi rời Pháp trở về Việt Nam, L.Cadière được cử làm tuyên úy trường Pellerin ở Huế, chức vụ này được giữ liên tục từ 1913-1918. Trong thời gian này L.Cadière lập Hội những người bạn Huế xưa (L’Association des Amis du Vieux Hué (AVH)) với tập san Bulletin des Amis du Vieux Hué (B.A.V.H) làm hành trang; L.Cadière làm chủ bút, dưới sự chỉ đạo “năng động”, tờ báo này là một trong số các báo hay nhất ở Đông Dương (6). Nhận thấy vai trò của Hội và sự ra đời của tập san B.A.V.H (“Tập san Đô Thành Hiểu Cổ Xã”, tên chính thức ghi trên bìa, dịch từ chữ Pháp là “Tập san của Những Người Bạn Cố Đô Huế”) mà linh mục L.Cadière là linh hồn của tập san… Anh em Morin là nhà tài trợ chính cho Tạp san Đô Thành Hiếu Cổ, đồng thời cho Hội một phòng làm việc tại Morin và tạo điều kiện để Hội tổ chức các cuộc họp thường niên (7). Công trình hoạt động của Hội, ngoài bộ B.A.V.H, Hội còn lập một thư viện. Từ 1917 đến 1922 thì thư viện hoàn thành. Năm 1923 Hội bảo trợ để thành lập Musée Khải Định. Ngày 15-11-1924, một Ban quản trị Bảo tàng viện ra đời, họ là những hội viên được chọn ra như các ông Gras, Rigaux, Levadoux, Sony, Peyssonneau… Năm 1915, theo sáng kiến của ông Gras, giám đốc kho bạc Trung bộ, đồng thời là một nghệ nhân ưu tú, nhiều hội viên của Hội đi điền dã ở làng Nham Biều để tìm một pho tượng Chàm cỡ lớn mà giám mục Caspar, đảm trách Địa phận Huế đã thông báo cho ông Odend’hal trước đó. Người ta đã may mắn tìm được pho tượng và trưng bày trong sân Tân Thư viện. Bộ sưu tập các kỷ vật Chàm được bổ sung và làm phong phú thêm vào năm 1917 với vài pho tượng và một dương vật mà linh mục L.Cadière đã phát hiện ở làng Xuân Hòa (8). Tháng 09-1918, L.Cadière được chuyển về Di Loan ở Cửa Tùng, địa danh gần cửa sông Bến Hải. Giáo xứ Di Loan là một trong giáo xứ lâu đời nhất ở Đông Dương mà L.Cadière đã lưu lại từ năm 1918 đến 1945. Đây là quãng thời gian mà L.Cadière sống hết mình, được ghi nhận là có hai biến cố. Biến cố đầu tiên là một cơn đau tim buộc L.Cadière phải trở về châu Âu năm 1928. Sau một thời gian ngắn, ông được bình phục và tiếp tục ngay công việc khoa học của mình, tham dự Tuần lễ Dân tộc học tôn giáo ở Luxembourg với bài tham luận đặc sắc về gia đình và tôn giáo của người Việt (9). Biến cố thứ hai là việc Nhật chiếm đóng Đông Dương, tháng 03 năm 1945; ông bị quản thúc tại Huế (15 tháng) rồi đến chính biến 19-12-1946, ông lại được đưa về quản thúc ở Vinh từ tháng 01-1947 cho đến 13-06-1953. Được đề nghị trở về Pháp, L.Cadière lúc ấy đã 84 tuổi nên ông một mực từ chối: “Cả đời tôi, tôi đã dâng cho xứ sở này rồi, cho tôi được ở lại và chết ở đây” (10). Ngày 06-07-1955 linh mục L.Cadière qua đời tại Huế và được an táng tại nghĩa trang Đại Chủng viện Xuân Bích theo đúng sở nguyện ở ngài. Trên tấm bia đá cỡ 24x15 cm đặt trước ngôi mộ L.Cadière, người ta đã viết về ông: “Hic Requiesit (Nơi đây yên nghỉ) Léopoldus Cadière cố cả. 1869-1955. R.I.P (Requiesit in pace - Yên nghỉ trong an bình!) Hơn 63 năm sống tại Việt Nam, L.Cadière để lại trên 250 công trình nghiên cứu khoa học về lịch sử, văn hoá, phong tục, ngôn ngữ học… Qua các tác phẩm vừa được dịch thuật và đã công bố cho thấy L.Cadière là một nhà Huế học chuyên khảo sát thực tế. Và trong cách viết của L.Cadière không những nêu sự kiện mà còn tiếp cận, mô tả tỉ mỉ đến chi tiết về các di tích lịch sử. Cụ thể là công trình nghiên cứu “Kinh thành Huế - Địa danh học” (11) mà hiện nay chúng ta đang quan tâm. HỒ VĨNH (259/09-10) ------- (1) Đỗ Trinh Huệ, Văn hoá, tôn giáo, tín ngưỡng Việt Nam dưới nhãn quan học giả L.Cadière, chủ bút tạp chí Bulletin des Amis du Vieux Hué (Đô Thành Hiếu Cổ (1914-1944), Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế, 2006, trang 16-17. (2) Trần Anh Dũng, tiểu sử và thư mục thừa sai Léopold Michel Cadière “cố cả” (1869-1955), Đắc Lộ Tùng Thư phát hành, Paris, 2002, trang 9. (3) Bùi Quang Tung, Le R.P. Léopold Cadière (1869-1955), Bulletin de l’Ecole Francaise d’Extrême - Orient, XLIX.2, 1955, trang 650. (4) Trần Anh Dũng. Sách đã dẫn, trang 27. (5) Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, Léopold Cadière - Về văn hoá và tín ngưỡng truyền thống người Việt, Nhà xuất bản Văn hoá Thông tin, Hà Nội, 1997, trang 6. (6) Bùi Quang Tung, BEFFEO, tập san đã dẫn, trang 651. (7) Hồ Vĩnh - Hồ Thị Phương Chi, khách sạn Morin xưa và nay, Tập văn Nghiên cứu Huế, Tập 06-2008, trang 338. (8) L.Sogny, Le Musée Khai Dinh à Huế, Indochine Hebdomadaire Illustré 4e Année No 152, Jeudi 29 Juillet 1943. Hà Xuân Liêm, Nhìn lại công trình học thuật B.A.V.H, Tạp chí thông tin Khoa học và công nghệ, số 03 (25). 1999, trang 127. (9) Bùi Quang Tung, BEFFEO, tập san đã dẫn, trang 651. (10) Đỗ Trinh Huệ, Sách đã dẫn, trang 21-22. (11) L. Cadière, Kinh thành Huế- Địa danh học, Những người bạn cố đô Huế (B.A.V.H) Tập XX (Năm 1933), bản dịch Hà Xuân Liêm, NXB Thuận Hóa, Huế. 2006, trang 111-188. |
VĨNH CAO - PHAN THANH HẢIVườn Thiệu Phương là một trong những Ngự uyển tiêu biểu của thời Nguyễn, từng được vua Thiệu Trị xếp là thắng cảnh thứ 2 trong 20 cảnh của đất Thần Kinh. Nhưng do những nguyên nhân lịch sử, khu vườn này đã bị triệt giải từ đầu thời vua Ðồng Khánh (1886-1889) và để trong tình trạng hoang phế mãi đến ngày nay. Trong những nỗ lực nhằm khắc phục các "không gian trắng" tại Tử Cấm Thành và phục hồi các khu vườn ngự của thời Nguyễn, từ giữa năm 2002, Trung tâm BTDTCÐ Huế đã phối hợp với Hội Nghệ thuật mới (Pháp) tổ chức một Hội thảo khoa học để bàn luận và tìm ra phương hướng cho việc xây dựng dự án phục hồi khu vườn này.
HỒNG DIỆUNhà thơ Cao Bá Quát (1809-1854) được người đời hơn một thế kỷ nay nể trọng, với cả hai tư cách: con người và văn chương. "Thần Siêu, thánh Quát", khó có lời khen tặng nào cao hơn dành cho ông và bạn thân của ông: Nguyễn Văn Siêu (1799-1872).
HÀ VĂN THỊNHI. Có lẽ trong nhiều chục năm gần đây của lịch sử thế giới, chưa có một nhà sử học nào cũng như chưa có một cuốn sách lịch sử nào lại phản ánh những gì vừa xẩy ra một cách mới mẻ và đầy ấn tượng như Bob Woodward (BW). Hơn nữa đó lại là lịch sử của cơ quan quyền lực cao nhất ở một cường quốc lớn nhất mọi thời đại; phản ánh về những sự kiện chấn động nhất, nghiêm trọng nhất đã diễn ra trong ba năm đầu tiên của thiên niên kỷ mới: sự kiện ngày 11/9, cuộc chiến tranh Afganistan và một phần của cuộc chiến tranh Iraq.
ĐẶNG TIẾN (Đọc Hồi ức của Đại tướng Võ Nguyên Giáp)Một tờ báo ở ngoài nước đã giới thiệu bốn cuốn hồi ức của Đại tướng Võ Nguyễn Giáp mới xuất bản. Dĩ nhiên là một bài báo không thể tóm lược được khoảng 1700 trang hồi ký viết cô đúc, nhưng cũng lảy ra được những đặc điểm, ý chính và trích dẫn dồi dào, giúp người đọc không có sách cũng gặt hái được vài khái niệm về tác phẩm.
NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO (Đọc tập truyện ngắn “Trà thiếu phụ” của nhà văn Hồng Nhu – NXB Hội Nhà văn 2003)Tôi đã được đọc không ít truyện ngắn của nhà văn Hồng Nhu và hầu như mỗi tập truyện đều để lại trong tôi không ít ấn tượng. Trải dài theo những dòng văn mượt mà, viết theo lối tự sự của nhà văn Hồng Nhu là cuộc sống muôn màu với những tình cảm thân thương, nhiều khi là một nhận định đơn thuần trong cách sống. Nhà văn Hồng Nhu đi từ những sự việc, những đổi thay tinh tế quanh mình để tìm ra một lối viết, một phong cách thể hiện riêng biệt.
ĐỖ QUYÊN…Đọc thơ Bùi Giáng là thuốc thử về quan niệm thơ, về mỹ học thi ca. Đã và sẽ không ai sai nhiều lắm, cũng không ai đúng là bao, khi bình bàn về thơ họ Bùi. Nhắc về cái tuyệt đỉnh trong thơ Bùi Giáng, độ cao sâu tư tưởng ở trước tác Bùi Giáng nhiều bao nhiêu cũng thấy thiếu; mà chỉ ra những câu thơ dở, những bài thơ tệ, những đoạn văn chán trong chữ nghĩa Bùi Giáng bao nhiêu cũng bằng thừa…
LÊ THỊ HƯỜNGTrong căn phòng nhỏ đêm khuya, giai điệu bản sonat của Beethoven làm ta lặng người; một chiều mưa, lời nhạc Trịnh khiến lòng bâng khuâng; trong một quán nhỏ bên đường tình cờ những khúc nhạc một thời của Văn Cao vọng lại làm ta bất ngờ. Và cũng có thể giữa sóng sánh trăng nước Hương Giang, dìu dặt, ngọt ngào một làn điệu ca Huế khiến lòng xao xuyến.
NGÔ MINHĐến tập thơ chọn Giếng Tiên (*), nhà thơ - thầy giáo Mai Văn Hoan đã gửi đến bạn yêu thơ 5 tập thơ trữ tình, trong đó có hai tập thơ được tái bản. Đó là tập đầu tay Ảo ảnh, in năm 1988, tái bản 1995 và tập Hồi âm, in năm 1991, tái bản năm 2000. 15 năm xuất bản 7 đầu sách (2 tập tiểu luận) và đang có trong ngăn kéo vài tập bản thảo tiểu luận nữa, chứng tỏ sức sáng tạo sung mãn đáng nể trọng của một thầy giáo vừa dạy học vừa sáng tác văn chương.
NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO (Đọc tập thơ ''Độc thoại trước mặt trời'' của Trần Lan Vinh- NXB Văn học Hà Nội- 2003)Trên thi đàn văn học Việt Nam hiện đại, sự thiếu vắng những cây bút nữ đã trở thành một vấn đề cần được chú trọng. Hầu như mỗi khi phụ nữ cầm bút, điều họ quan tâm nhất đó là sự giải bày tâm sự với ngàn ngàn nỗi niềm trắc ẩn. Nếu viết là một cách để sẻ chia tâm sự thì Trần Lan Vinh là một trường hợp như thế.
NGUYỄN THANH TÚMùa đông năm ngoái, anh Đoàn Tuấn từ Hà Nội vào Huế giảng dạy lớp đạo diễn điện ảnh. Dù công việc khá bận rộn nhưng anh vẫn dành cho tôi không ít thời gian tâm sự, bởi ngoài tình cảm thân thiết anh còn là cấp trên của tôi ở toà soạn tạp chí Thế Giới Điện Ảnh. Trong những lần trò chuyện ấy, tôi thật sự bất ngờ khi nghe anh kể chuyện về cuốn sách anh sắp in ở Nhà xuất bản Trẻ mà nội dung của nó là câu hỏi hơn 20 năm nay vẫn luôn canh cánh trong tôi. Vốn dĩ Đoàn Tuấn là nhà biên kịch điện ảnh tên tuổi, anh đã có nhiều kịch bản phim nổi tiếng như: Chiếc chìa khoá vàng (1998), Ngõ đàn bà (1992), Đường thư (2003)...
MAI VĂN HOANNguyễn Khoa Điềm đến với thơ hơi muộn nhưng đã sớm định hình một phong cách riêng. Qua các tập Đất ngoại ô (1972), Mặt đường khát vọng (trường ca, 1974), Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (1986), Thơ Nguyễn Khoa Điềm (1990), Cõi lặng (2007) ta bắt gặp những suy ngẫm của anh đối với nhân dân, đất nước; những chiêm nghiệm của anh về đời sống xã hội, nhân tình thế thái. Những chiêm nghiệm và suy ngẫm đó được thể hiện bằng một giọng thơ trầm tĩnh, bình dị, sâu lắng và khá hiện đại.
NGUYỄN QUANG HÀ (Đọc Nỗi niềm để ngỏ của Lê Lâm Ứng - Nhà xuất bản Văn học 2002)Đọc thơ Lê Lâm Ứng để tìm những câu mượt mà thì hơi khó. Thảng hoặc lắm mới bắt gặp ở anh tâm trạng thư thái này: Biết rằng trong cõi nhớ thương Lạc nhau âu cũng lẽ thường vậy thôi
MAI VĂN HOANNguyễn Đắc Xuân không chỉ có chân trong Hội Nhà văn Việt Nam mà anh còn là hội viên Hội Lịch sử Việt Nam, hội viên Hội Nhà báo Việt Nam... Nhưng dù ở cương vị nào thì điều mà anh tâm huyết nhất vẫn là lịch sử và văn hóa Huế.
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG (Nhân đọc sách "Gió về Tùng Môn Trang" của Nguyễn Xuân Dũng)Tác giả cuốn sách này là một võ sư đệ bát đẳng huyền đai thuộc phái không thủ đạo, vừa là một nhà hoạt động thương trường nổi tiếng ở Mỹ. Nhưng cuốn sách này không hề bàn đến chuyện đấm đá hơn kém hoặc là chuyện mua bán lời lỗ mà bàn về cái TÂM. Tác giả tỏ ra hết sức chú trọng vũ đạo; nhất cử nhất động đều phải xuất phát từ cái TÂM, cái TÂM viết hoa.
TRẦN THUỲ MAI (Đọc Uẩn khúc, tiểu thuyết của Hoàng Văn Bàng, NXB Thuận Hoá 2002)Câu chuyện xảy ra ở một vùng quê không xa lắm, với một tầm mức tai hại không lớn, gây một ảnh hưởng mới xem qua tưởng chừng không đáng kể. Một ông trưởng phòng ở huyện tham ô vài chục triệu thì đã thấm gì so với những câu chuyện động trời hàng ngày trên các báo, mà thủ phạm mang những chức tước lớn lao hơn, với những số tiền khổng lồ tới hàng nghìn tỉ!
MAI VĂN HOAN (Giới thiệu các tác giả thuộc chi hội nhà văn Việt Nam tại Huế)Ngô Minh là một trong những nhà văn Việt Nam ở Huế được Đài truyền hình Cáp Việt Nam chọn giới thiệu tới 45 phút trong chương trình “Người của công chúng”. Tôi cũng được mời nói đôi lời về anh. Với tôi, Ngô Minh là người làm việc “tới số” và chơi cũng... “tới số”!
PHẠM XUÂN NGUYÊNCùng một kiếp bên trời lận đận (Bạch Cư Dị - Tỳ bà hành)Nhà văn Bùi Ngọc Tấn vừa cho ra mắt tác phẩm Rừng xưa xanh lá (Mười chân dung văn nghệ sĩ) tại Nhà xuất bản Hải Phòng (1/2003).
TÔ VĨNH HÀNhững trang viết sau cùng của một con người luôn luôn là điều thiêng liêng và không bao giờ hết bí ẩn. Vì sao lại dùng từ ấy chứ không phải là chữ kia; đề cập đến cái này chứ không phải là cái khác..? Rất nhiều câu hỏi sẽ đến với người đọc khi trước mắt ta là những ý tưởng hiện hữu sau cùng của một đời người - đặc biệt ở con người vĩ đại như Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh là cái tên mà mỗi người Việt lúc đọc hay nói, không chỉ diễn đạt một quan niệm gần như vô hạn của nhận thức, mà hơn nhiều thế nữa - là âm sắc tuyệt vời của sự kết tụ những tinh hoa quý giá nhất của trái tim mình.
NGUYỄN TỐNGQuê hương đất nước và con người luôn có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau trong suốt chiều dày của lịch sử dựng nước và giữ nước. Nó tự nhiên chan hoà đến mức như cá bơi quẫy giữa đại dương, chim tung cánh vô tư giữa bầu trời bát ngát. Đến lúc nào đó, khi con người rơi vào cảnh cá chậu chim lồng, tình cảm, ý thức về đất nước thiêng liêng mới trở nên ám ảnh day dứt.
NGUYỄN KHẮC PHÊ (Đọc “Thân Trọng Một – con người huyền thoại” của Nguyễn Quang Hà)Đã từ lâu, tên tuổi anh hùng Thân Trọng Một trở nên thân quen với mọi người, nhất là với quân dân Thừa Thiên Huế; những “sự tích” về ông đã thành truyện “truyền kỳ” trong dân chúng và đã được giới thiệu trên nhiều sách báo. Tuy vậy, với “THÂN TRỌNG MỘT – CON NGƯỜI HUYỀN THOẠI”, lần đầu tiên, chân dung và những chiến công của ông đã được tái hiện một cách đầy đủ và sinh động nhất.