NGUYỄN ĐẶNG MỪNG
Gái quê nghèo ấy người ta nghèo đến cả cách đặt tên. Anh Lô lên lớp đệ tam rồi, học ở tỉnh về, bà con vẫn gọi là anh Lọ, dù tên anh là Nguyễn Lô hẳn hoi, may ông anh làm ủy viên hộ tịch xã sửa lại cho.
Minh họa: Nhím
Nhiều khi Lô buồn lắm, nhưng có khi cũng thấy nhớ cái tên Lọ cha mạ anh đặt cho. Một niên khóa học ở trường tỉnh, không nghe ai kêu Lọ ơi cũng nhớ. Nhớ như nhớ dái mít chấm muối ớt, như cà chấm ruốc nhai nghe rạo rạo cát. Và nhớ nhất là em Ngọc, Lan Ngọc.
Oái oăm là em Ngọc cũng bị dân làng kêu là em Nọc.
Cha mạ Ngọc nuôi bốn con heo nọc, nhà Ngọc thuộc loại giàu nhất làng. Bốn con Nọc chạy gieo tinh khắp vùng, một phát hai thúng lúa, nên có khi Ngọc phải dắt heo nọc đi. Năm đó Ngọc khoảng mười hai tuổi, Lọ lên mười, cứ chạy theo đám trẻ trâu trong xóm theo Nọc, vừa chạy vừa la, “Nọc tới Nọc tới tụi bay ơi.” Lọ cũng thế.
Cho đến một ngày, năm đó, Lô mười bốn, Ngọc mười sáu. Lô lớn rồi và “có học”, và thương Ngọc lạ lùng, đêm nào nằm mơ cũng thấy chị Ngọc đẹp như tiên trong các truyện thần thoại. Lô đâm ghét những thằng trẻ trâu hay chọc ghẹo chị Ngọc.
Heo nhà Lô động đực, Ngọc vâng lệnh cha dắt heo đến phối. Hơn cây số chạy theo con heo “khát tình”, đến sân, Ngọc ngồi khóc. Mạ Lô rót nước chè mời Ngọc cũng không uống, cứ khóc. Con heo nọc nhảy vô chuồng không phối được do con nái nhỏ quá, còn trinh. Mạ Lô kêu lên, Ngọc ơi giúp bác một tay. Ngọc đứng vụt lên, quyệt tay áo lau nước mắt rồi chạy nhanh vào chuồng heo. Lô chạy theo, Ngọc quắc mắt phán, “không được vô đây”. Lô đứng khựng lại.
Ngày Tết Mậu Thân, Lô đã lên lớp đệ tam, phải ra tỉnh học. Có mấy người bạn ở tỉnh về chơi, hỏi, ở đây em nào đẹp nhất, Lô “thật thà khai báo”, “Chỉ có chị tau là đẹp nhất”. “Chị nào”. Lô dẫn mấy bạn đi thăm nhà Ngọc. Ngày tết heo nhà Ngọc được nghỉ bảy ngày (không biết tâm trạng các anh heo có vui khi được nghỉ không, heo khác người làm sao mà biết được) nên cả nhà vui vầy sum họp. Thấy nhóm của Lô vào, Ngọc xúc động lắm. Trai làng chẳng ai đến chơi nhà cô gái, dù đẹp mà có “quá trình” dắt heo nọc.
Tóc Ngọc không cuốn lọn đào như khi chạy theo heo nọc mà thả tóc... thề. Cái nơ vàng hoa cúc trễ xuống trên đôi lông mày cong như trăng khuyết. Má Ngọc đỏ au, mắt chớp chớp, “Chào anh Lô và các bạn đến chơi”. Lô sướng ngất, lần đầu được Ngọc gọi anh. Cầm chén trà mà tay cứ run run rồi… dạ, “Chị Ngọc khỏe khôông”. Ngọc liếc mắt qua các anh rồi dừng lại ở Lô như ngầm bảo, vô duyên, “con gái mười bảy bẻ gãy sừng trâu” sao không khỏe được.
Ngọc kêu mấy đứa em dọn mứt, bánh đầy bàn. Ngọc lại nheo mắt như trêu Lô, “ê, uống chút bia nghe”. Lô… “dạ”. Mấy đứa bạn cười rúc rích, “phải nói cho đủ câu, dân văn chương mà, “dạ, thưa chị Ngọc em chưa biết uống bia ạ”. Cả đám cười vang. Mặt Lô đỏ lên, vừa tức vừa sướng. Ngọc liếc nhẹ qua Lô, như ngầm bảo, đừng có mà lộn xộn, vẫn chị em đó, nghe chửa. Cùng tuổi, nhưng mấy thằng thành thị này tinh quái hơn Lô. Tụi nó cứ cười, nhéo nhau la ỏm tỏi, Lô thì mặt đỏ lên, nhìn tụi bạn như cầu xin. Ngọc lấy ra mấy chai bia, trịnh trọng, “hôm ni là ngày đầu xuân, là ngày vui nhất trong năm, đối với gia đình và… đời Ngọc được tiếp các anh. Một bạn phải uống hết một chai La-ve nghe”.
Uống đứa chai bia mà say ngất, có đứa rớt xuống ruộng. Ngọc đi theo một đoạn, kêu “ hi hi, con trai yếu rứa, Ngọc cũng một chai như các anh mà”. Thằng Huy nghịch nhất mà lúc say cũng lạng quạng, nói lắp bắp, “Chị Ngọc ơi, chị đẹp... kinh hồn, tui chưa khi mô chộ ai đẹp như chị. Nàng Mỹ Lệ lớp mình gặp chị Ngọc, thì ôi thôi rồi... xin bái”. Hắn khật khưỡng cười he he, he he, giọng nhừa nhựa. Chị Ngọc mắt đỏ hoe, “Chào các anh nghe... sang năm lại về chơi, nghe. Chúc các anh... chân cứng... đá mềm”. Năm đứa nhìn theo mái tóc rung rinh, rung rinh theo nhịp đi. Hình như nơi nào từ thân thể Ngọc cũng rung rinh, như đang múa.
Đêm đó năm thằng ngủ chung ở căn nhà cha mạ Lô để lại làng, chọc nhau không ngủ được, bèn có sáng kiến làm thơ, đứa hai câu, ghép lại để mai thằng Lọ có nhiệm vụ trao cho nàng Ngọc. Thằng Huy nhập đề:
Làng Đông có chị Ngọc Lan
Người chi mà đẹp bà Hoàng cũng thua
Ha ha, thằng Quy tiếp:
Mắt xanh, má đỏ, môi hờ
Tóc như mây mượt lên bờ da non
Đến lượt thằng Lô, hắn bí. Thằng Hoàng cứu bồ:
Mối tình thằng Lọ héo hon
Mần chi tội rứa, heo con nái xề.
Lô nổi nóng, bảo “im đi mấy thằng ba trợn” rồi ôm mặt khóc hu hu.
Đang vui đang buồn thì súng nổ, súng nổ rát từ phía nhà Ngọc. Cả năm thằng chui xuống hầm núp đạn. Vừa run vừa cười. Lô khóc hưng hức, kêu Ngọc ơi Ngọc ơi, có răng không chị. Mấy thằng còn lại nín, không dám cười.
Sáng ra, nghe tiếng khóc từ phía xóm chị Ngọc. Nghe bà con “trạo”, có mấy ông nghĩa quân đang uống bia cùng gia đình Ngọc bị bắn chết. Tiếng khóc thảm thiết của những người mạ khóc con giữa khuya não nề, da diết. Các ông nghĩa quân cũng chỉ hơn Lô vài tuổi. Mấy đứa cúi rạp người đạp xe ngược lên tỉnh. Hú hồn!
Mồng tám Âm lịch, thứ hai đi học. Cả lớp nhìn nhau chờ Thầy. Thầy trong Huế kẹt chưa ra được. Đạn pháo thì cứ ầm ào phía làng Lô. Trực thăng bay như chuồn chuồn, bắn rocket từng loạt xuống những dãy tre mù mù phía xa. Cả năm thằng ra ngồi ở cánh đồng nhìn về hướng khói. Khói và khói, âm âm, u u. Và lửa, và những tiếng nổ ầm ào như sấm rền. Lô gục đầu trên cuốn sách, nước mắt nó cứ thế tuôn, nhòe cả cuốn tiểu thuyết, hình như là cuốn Đoạn tuyệt của Nhất Linh. Vai nó rung lên, Ngọc ơi là chị Ngọc ơi…
Mùa xuân năm đó, một mùa xuân đầy chết chóc tang thương, từ thành thị lan dần về miền quê, từ từ xa về phía Trường Sơn, rồi im bặt. Trên không, những chiếc trực thăng vẫn bay bay vu vơ, không còn mục tiêu để bắn. Những vành khăn tang quả phụ trễ tràng trên đôi mắt u hoài đi nhận xác chồng, đi làm sổ tử tuất cũng bình thường như người ta đi chợ.
Ngọc vẫn biệt tăm. Lô hỏi bà con có người bảo Ngọc chết rồi, lại có người nói Ngọc theo du kích lên rừng rồi. Và chàng Lô cứ… làm thơ:
Tóc bay từng vạt gió nồm
Dậy thì như sóng hương cồn cào lên
… …
Nửa đêm nằm khóc một mình
Em là em chị như tình quê hương
Một hôm, trên đường phố thị xã, từ xa, có một cánh áo dài bên một anh lính Mỹ, Lô nhận ra ngay chị Ngọc. Lô đứng nép vào cánh cửa của hiệu sách để Ngọc không nhận ra. Ngọc dẫn anh bạn Mỹ vào hiệu sách, hai người nói tiếng Mỹ, Lô cũng nghe được phần nào, ý như sau: “Tôi có đứa em, là người yêu tôi, nhưng nếu giờ gặp lại, không biết tôi phải nói với anh ta thế nào, vì tôi biết anh ta rất ghét Mỹ. Tôi mua cuốn này nhé, để có dịp tôi tặng đứa em tội nghiệp ấy”. Lô thấy chị cầm trên tay cuốn Đoạn tuyệt và hôn lên đó.
Lô nhìn theo cái bóng nhỏ nhắn của chị Ngọc bên anh chàng Mỹ cao to, xa dần dưới nắng trưa. Tối đó Lô chiêm bao thấy chị Ngọc mang súng AK chạy trong lửa đạn. Rồi thì thấy chị chết. Rồi thì thấy chị bị đè bẹp dưới chàng Mỹ to béo. Lại thấy chị Ngọc nghẹo cổ sang một bên, nước mắt chảy ròng, cái nơ hoa cúc móp méo trên lọn tóc rối bù... Lô hét lên, tung mền đứng nhìn ra đêm. Mưa. Gió bấc và nước mắt Lô hòa vào đêm, cái đêm kinh hoàng ấy theo Lô cả đời.
*
Sau 1975 Lô về quê làm ruộng. Hợp tác xã xơ xác những cánh đồng. Có lần ba Ngọc đi cuốc đất thải cùng, bảo, hay là chú cháu mình mua vài con heo đi dắt đực, chú bỏ vốn, cháu dắt nghe. Thương con Ngọc quá, giờ không biết nó ở mô. Đầu óc “kinh tế thị trường” của ba Ngọc ấy mà được việc. Mấy tháng sau đã có hai anh nọc trai tơ sung sức, nghiệt là Lô khó xử quá. Có học nhất làng mà cứ dắt nọc chạy kiểu ni thì khi mô có vợ, lại có lý lịch xấu nữa. Một tối, ba Ngọc mua đâu về nửa lít rượu, mời Lô lên nhà bàn chuyện. Ba Ngọc bảo, giàu lên thì ai cũng nể, sợ chi. Uống rượu ngà ngà, Lô thề với ba Ngọc là sẽ dắt Nọc để… làm giàu. Mà giàu thiệt. Thời đó bà con nuôi heo nhiều, nhu cầu heo giống không đủ, vậy là Lô và ba Ngọc ăn nên làm ra, chỉ cần một năm đã có của dư của để. Nhưng nào đã yên. Hợp tác buộc phải đưa heo nọc vào đội chăn nuôi, rứa là tiêu.
Đội heo nái heo nọc gọi là chăn nuôi HTX không biết cách chăm sóc, dẫn đi phối nó chỉ đứng nhìn, không mần chi được. HTX mời cha Ngọc lên hỏi kỹ thuật, vì răng mà ông nuôi nó nhảy ngày tới 2 cái, mà HTX nuôi nó nhảy nhiều nhất là một cái. Ba Ngọc tỉnh bơ nói, công lao động hợp tác tui được 2 lạng lúa thì tui cuốc theo kiểu 2 lạng, heo cũng như người mà.
*
Năm 2002, Lô năm hai tuổi, chị Ngọc năm bốn. Chị là Việt kiều đầu tiên về làng vào dịp Tết. Xe đậu ở đường quan, chị đi bộ, một mình về nhà. Tụi nhóc chạy theo, có đứa phụ chị mang vác va li. Tóc chị vẫn... thề như xưa, cái nơ vàng cũng duyên dáng nở hoa cúc trên đôi mắt buồn tênh. Đường xóm sáng hơn, không âm u bóng tre như thời chị dẫn heo nọc chạy khắp vùng. Chị vui, chị buồn, chị cười mà nước mắt cứ ứa ra. Những chân chim rẽ quạt bên mắt chị nhòe nước, miệng chị lại cười toe chào bà con. Chị xoa đầu từng cháu, tụi nó không nghịch như xưa, không còn gọi chị “Nọc tới Nọc tới”. Chị nhớ Lọ ghê gớm, cậu bé hiền, có đôi mắt biết nói. Và súng đạn, và chết chóc. Và những chiếc xe nhà binh mang chị chạy hút vào các doanh trại lính Mỹ... và.
Tần ngần trước nhà, chị ngửi mùi phân heo, điều mà mấy mươi năm rồi chị nhớ. Tiếng heo kêu, không phải vài con như xưa mà là hàng trăm con từ nhà chị. Chị hoảng loạn bước vào, nằm ngay trên bộ phản ngày xưa chị nằm đọc sách của Lọ cho mượn. Ôi, đời chị, đọc sách thấy toàn nhân vật tiểu thư mà chị thì đi dắt heo nọc. Cả làng chẳng đứa con trai nào để ý, trừ Lô. Câu đầu tiên chị hỏi mạ, cậu Lô giờ sao rồi mạ. Đứng sau lưng mạ là Lô, anh mặc bộ đồ công nhân còn mùi phân chuồng gật đầu thưa, dạ, em Lô đây chị. Chị băng tới, ôm chầm Lô mà hức hức, mùi phân heo cùng mùi đàn ông quyện vào nhau thành nỗi niềm cồn cào da diết. Ba chị chết rồi, để trại heo mấy trăm con cho đứa cháu độc thân trung thành gần hết đời với heo.
Buổi tối. Hai chị em đi dọc đường xóm. Trăng hạ tuần. Lô nhìn sững đôi mắt ướt của chị, trên đó đôi lông mày nhíu lại, khuyết đi thành hai nửa vòng tròn gần nhau.
Hai chị em ngồi xuống trước sân trường, nơi ngày hai chị em cùng học, nhắc chuyện xưa, cái ngày chị dẫn heo tới nhà Lô. Chị hỏi sao anh chưa lấy vợ (lại anh). Lô vẫn tưng tửng như xưa “Ngu lâu quá chị ơi, hay là chị bày cho em đi, như ngày xưa vậy. Tại chị không cho em nhìn heo nhảy, nên cứ ngu hoài.” Chị quắc mắt nhìn sửng Lô, đập lên vai Lô, nói như khóc như cười, “ôn nội mi chơ, thằng nứt mắt, thằng Lọ”. Rồi chị lại xoa đầu Lô, rồi chị khóc, rồi chị nói bập bệu, “còn mô nữa, Lọ ơi, mất hết rồi, hết rồi tuổi thơ ơi là tuổi thơ, Lọ ơi là Lọ, Nọc ơi là Nọc...”.
N.Đ.M
(TCSH352&SDB29/06-2018)
TRẦN KIÊM ĐOÀN Ngôi nhà một thời là tổ ấm trên đồi bỗng trở thành rộng gấp đôi, gấp ba và vắng vẻ như một tòa lâu đài cổ từ khi Bé Út dọn ra khỏi nhà để lên miền Bắc học. Đứa con 18 tuổi trên đất Mỹ nầy rời nhà đi học xa thường có nghĩa là đang bước vào đời, ra khỏi vòng tay cha mẹ, thật khó lòng về lại. Những bước tiếp nối là học ra trường, kiếm việc làm, chọn nhiệm sở như cánh buồm đưa tuổi trẻ ra khơi. Bất cứ nơi nào có thể an cư lạc nghiệp trên 50 tiểu bang sẽ là nơi đất lành chim đậu. Tuổi thành niên tiêu biểu của văn hóa Âu Mỹ là tự lập, gắn liền với vai trò chuyên môn và xã hội chứ không phải quanh quẩn với đời sống gia đình.
ĐỖ PHẤNĐêm rất khuya dưới chân núi H. Khó khăn lắm chúng tôi mới tìm được một con đò bằng tôn móp méo xác xơ. Chẳng hiểu ban ngày trông nó thế nào. Có lẽ đây là chiếc đò bị cấm lưu hành? Không thể có mặt ở bến vào ban ngày. Cũng là cấm làm phép. Dòng suối không có chỗ nào đủ sâu để có thể chết đuối.
ĐỖ KIM CUÔNGBây giờ bạn bè ít được gặp anh lang lang trên phố. Thảng hoặc dăm bữa nửa tháng, có khi hơn mới tóm được anh. Ấy là khi anh phải ra khỏi nhà đi nạp bài cho những tờ báo mà anh thường cộng tác, hoặc đi nhận nhuận bút một vài bài thơ lẻ in trên báo.
VŨ NAM TRỰC Truyện ngắn
TRẦM NGUYÊN Ý ANHÔng Nhâm bước chầm chậm theo con đường tráng xi-măng ngoằn ngoèo trong con hẻm nhỏ. Căn nhà ông ở cuối xóm, một trệt, một lầu... mới tinh. Cánh cửa sắt đóng im ỉm. Ông ngồi bệt xuống nền xi-măng vì chân ông đã mỏi. Lẽ ra, khi mấy đứa con ông chưa bàn nhau cất lại căn nhà, ông đã có thể đẩy cánh cửa rào bằng tre và đàng hoàng bước vào nhà mình.
XUÂN CHUẨNĐể rồi tôi kể cho ông nghe về lai lịch cái quạt, để ông ông khỏi coi tôi là Thằng Bờm có cái quạt mo. Cái thời quạt điện quạt đá, máy lạnh mà cứ bo bo cái quạt kè, thỉnh thoảng lại đạp phành phạch như mẹ hàng cá thách lên giữa chợ. Cũng chẳng có gì li kỳ, hay mùi mẫn rơi lệ, chỉ là chuyện đời tầm phào.Hai ông trải chiếu ngồi giữa sân, nhâm nhi chén trà, ông Thân nói với đại tá Tiến về hưu như vậy khi đại tá ngỏ ý thích cái quạt kè của ông.
TRẦN THỊ TRƯỜNG Bim chào đời vào lúc kém 19 phút. Trăng hạ tuần phun nhẹ màu đục của sữa vào bầu trời. Hôm sau trời lất phất mưa. Bố nói với bà ngoại trước khi đi làm: "Nếu không thấy con về thì bà giúp con cùng nhà con nuôi cháu". Câu nói ám ảnh làm trí tưởng tượng của bà ngoại nhiều lần thắt lại. Sau này nhiều khi bà ngoại sợ cả cái bóng của mình.
NAM TRUNG Ông Hãnh cứ đi tới đi lui trong phòng khách nhà ông, vừa đi vừa quạu cọ lẩm bẩm: thằng Hùng nó nói vậy là nó có ý coi thường mình, nó dám trứng khôn hơn vịt. Rồi mày sẽ biết tay ông. Ông sẽ cho mày còn lâu mới được vào Đảng, ông sẽ bác tất cả những đề xuất về mày...
HOÀNG THÁI SƠNKhi tôi lớn lên thì nội tôi đã mất từ lâu nhưng thỉnh thoảng dân làng vẫn nhắc đến người với niềm cảm mến về những chuyện không ít ly kỳ. Ông tôi rất khoẻ, người tròn vo, đen như sừng, tục danh Cu Trắt - phương ngữ vùng quê tôi nghĩa là nhỏ và rắn chắc. Ông ham mê võ thuật, thạo côn quyền, thuở trai thường đóng vai ông địa trong đám múa lân. Đám múa năm nào hễ thiếu ông là coi như nhạt trò, dân làng chẳng ai buồn xem. Người ta đồn ông tôi tài ba lỗi lạc, như có thể đi trên lửa, nhảy qua nóc nhà, còn những thứ chui vào hậu cung đình làng mà không cần dở ngói là xoàng... Kho chuyện về ông ngày càng dày do mồm miệng dân gian thêu dệt thêm, tuy nhiên trong đó nhiều chuyện là có thật.
PHAN XUÂN HẬUTôi trở về quê sau mười năm xa cách. Quê tôi nằm cuối con sông Vẹn, con sông này là nhánh của sông Dinh, bắt nguồn từ dãy núi Gám, chảy qua bến Dền. Nơi đây xưa kia là kinh đô của vua Dền. Vua Dền tụ tập lực lượng chống lại nhà Trần khi đó đang trấn áp nhà Lý. Vua Dền là hậu duệ của Lý Thái Tổ, ông không chịu sự chuyên quyền của vua tôi Trần Thủ Độ bèn lập căn cứ ở miền Tây Yên Thành, tức quê tôi, và Dền là kinh thành của ông, dân quen gọi ông là vua Dền.
NGUYỄN VĂN VINHTết Mậu Thân năm ấy tôi tròn mười sáu tuổi. Soi gương, tôi thấy y xì một con bé tóc lơ xơ hoe nắng, xấu tệ.
CHÂU DIÊNĐơn vị của tôi đi bộ từ một tỉnh miền Trung, lên qua Mường Phăng thì Điện Biên đã giải phóng. Sau một tháng đi bộ nhưng gần như chạy bộ, chúng tôi được phép nghỉ lại hai ngày ở một bản, hồi đó bản này nằm khá sâu trong rừng, nhưng nay thì nó đã ở bên một nhánh đường mới làm dẫn ra phố huyện Tuần Giáo để nối vào con đường số 6 chạy tuốt lên Điện Biên Phủ.
NGUYỄN TRƯỜNGLàng Hạ nằm phía hạ nguồn sông La Ngà. Đất chật. Người đông. Đói nghèo thành nếp. Hồi hai bên đánh nhau, nơi đây là vùng địch hậu. Giải phóng hơn chục năm mà làng Hạ đói nghèo vẫn hoàn nghèo đói. Không ít người bỏ làng đi xa chẳng thèm ngoái cổ nhìn lại. Vậy mà hơn mười năm lại đây, nhờ vực dậy cái nghề tơ tằm truyền thống vốn có từ xưa, làng Hạ đang trở thành một làng nghề giàu có nhất nhì trong vùng. Nhà cũ lỗi thời phá đi xây mới. Đường làng bùn lầy được thay bê-tông. Trường tiểu học tranh tre nứa lá hồi nào nay lên hai tầng. Điện lưới dọc ngang khắp làng đã đẩy năng suất ươm tơ kéo sợi lên cao chưa từng thấy. Chất lượng tơ tằm đạt chuẩn xuất khẩu. Hàng bán chạy hơn cả tôm tươi. Thu nhập người dân ngày một cao.
LÊ TRÂMNgồi với tôi và Kh là một đôi nam nữ còn khá trẻ. Chàng thanh niên, theo lời gã, vừa mới về từ Thái Lan sau khi trúng một hợp đồng béo bở. Gã là đại diện của một công ty xuất nhập khẩu nổi tiếng ở bên ấy.
NGÔ TỰ LẬPCó lẽ tôi đã ngủ rất lâu trước khi bị lay dậy một cách dữ dội. Tôi cố nằm thêm, mặc dù đó không phải là thói quen của một người lính cũ. Thường thì tôi bật dậy ngay. Trước khi tôi vào lính, cha tôi, một đại tá từng trải ba cuộc chiến tranh, chỉ dặn mỗi một câu: “Hãy chồm dậy ngay tiếng còi báo động đầu tiên!”. Lời dạy của ông tôi làm theo trong suốt thời gian tại ngũ và cả khi giải ngũ. Nhưng có những lúc ta không làm chủ được mình. Tôi thấy mình đau ê ẩm và phải một lúc khá lâu sau tôi mới chậm chạp mở mắt.
PHẠM THỊ CÚCTừ những ngày thơ bé còn cắp sách đến trường cho đến khi đã bước vào đời, con cái đã khôn lớn và trưởng thành, trong ký ức của tôi vẫn luôn lưu giữ những hình ảnh sinh động và kỳ diệu của hàng ngàn con cò trắng rợp cả cánh đồng bát ngát, những cánh rừng và vườn cây trĩu nặng vô vàn chim chóc, hình ảnh chim cò thân thiết đậu cả trên vai người, trên đầu người, quẩn dưới chân người... là chuyện của Vùng Đồng tháp Mười qua những trang viết hấp dẫn của các nhà văn Sơn Nam và Đoàn Giỏi.
MAI NINHTrong khoảng giữa buổi chiều thăm viếng cơ sở và dạ tiệc, tôi chạy về nhà thay quần áo. Dưới vòi nước ấm, tôi nao nao xúc động nhớ lại từng khuôn mặt bạn bè. Ngoài một hai người thỉnh thoảng gặp nhau nhờ ở lại nơi này sau khi tốt nghiệp, còn hầu hết thì sau một phần tư thế kỷ đã qua đi, bây giờ mới tái ngộ. Làm sao không ngẩn người trước những tên bạn ngày xưa mặt mũi căng hồng tí tửng nhố nhăng, giờ đây làn da gấp nếp, râu ria đạo mạo, ra dáng sếp lớn sếp nhỏ cả rồi. Và dấu chân chim của thời gian càng rõ rệt hơn nữa, nơi những cô đầm bạn gái của tôi.
MAI NINH- Rối, Rối ơi! Dậy đi nào. - Nằm mãi đây cũng đừng hòng có ai lượm xác đem chôn. - Dậy đi! Rối ơi.
ANH DƯƠNGCòn sống đến nay, ông tôi phải hơn trăm tuổi. Trước ngày chết, ông kể cho tôi câu chuyện thương tâm này.
NGUYỄN XUÂN HOÀNG1. Từ Huệ nằm thiêm thiếp bên cạnh án thư. Tóc râu chàng bạc trắng. Đêm qua, ngoài trời mưa gió to quá. Chàng không làm sao ngủ được. Từ Huệ sợ mưa, sợ phải nghe thấy những âm thanh cuồng nộ của trời đất. Điệu luân vũ ấy là nỗi ám ảnh khi chàng còn là một anh khóa vô danh.