Chuyện ở làng Hạ

09:49 30/07/2009
NGUYỄN TRƯỜNGLàng Hạ nằm phía hạ nguồn sông La Ngà. Đất chật. Người đông. Đói nghèo thành nếp. Hồi hai bên đánh nhau, nơi đây là vùng địch hậu. Giải phóng hơn chục năm mà làng Hạ đói nghèo vẫn hoàn nghèo đói. Không ít người bỏ làng đi xa chẳng thèm ngoái cổ nhìn lại. Vậy mà hơn mười năm lại đây, nhờ vực dậy cái nghề tơ tằm truyền thống vốn có từ xưa, làng Hạ đang trở thành một làng nghề giàu có nhất nhì trong vùng. Nhà cũ lỗi thời phá đi xây mới. Đường làng bùn lầy được thay bê-tông. Trường tiểu học tranh tre nứa lá hồi nào nay lên hai tầng. Điện lưới dọc ngang khắp làng đã đẩy năng suất ươm tơ kéo sợi lên cao chưa từng thấy. Chất lượng tơ tằm đạt chuẩn xuất khẩu. Hàng bán chạy hơn cả tôm tươi. Thu nhập người dân ngày một cao.

Minh họa: Đặng Mậu Tựu

Làng Hạ đổi đời. Nom ai cũng có máu mặt.
Phú quý tất sinh lễ nghĩa. Và lễ nghĩa hợp cái tâm người làng Hạ lúc này là dỡ bỏ ngôi đình làng lâu nay hoang phế để xây ngôi đình mới to đẹp hơn. Thế là chuyện được đem ra bàn. Cả làng Hạ ngàn người như một: không để thua đình làng Thượng vừa xây xong. Đúng quá! Hoan hô! Nhưng ngót một trăm rưỡi triệu lấy đâu ra? Ối! Lo bò trắng răng! Có gì ghê gớm lắm đâu! Hô một tiếng là êm ngay thôi mà!

Quả vậy, "Tâm thư" của làng "thống thiết" đến nỗi mới phát ra chưa đầy nửa tháng mà "hảo tâm" của người làng Hạ ở trong nước và ở cả nước ngoài đã vượt ngoài dự đoán: hai trăm triệu có thừa! Trong số dân làng hiện ở nước ngoài gửi tiền về giúp làm đình có ông Dù là vượt trội hơn hết.

Tháng 5 năm Quý Mùi khởi công xây đình. đến giữa tháng 8 là hoàn tất đâu vào đấy. Một ngôi đình cao to đường bệ, đẹp lộng lẫy, biểu tượng cho truyền thống văn hoá làng và sự phát đạt của một làng quê đang soi bóng lung linh bên bờ sông La Ngà, khiến cả làng Hạ những ngày này vui như có hội.

Ngày khánh thành đình làng kết hợp với thu tế cũng đã đến. Nhận được thư mời, ông Dù từ nước ngoài bay về. Ông về sớm mấy ngày đợi chờ trên thành phố. Sáng nay ông đi ô tô con về làng dự lễ. Chẳng may bị kẹt xe giữa đường nên ông tới chậm không kịp dự lễ khánh thành mà chỉ kịp dự lễ tế mà thôi. Ông vội vã thay bộ com-lê để mặc vào bộ y phục truyền thống, rồi hoà vào đám bô lão đang khăn áo chỉnh tề đứng phủ phục trước hương linh các ngài khai canh khai khẩn nên làng Hạ này.

Chuyện ông Dù ngày xưa đi lính làm đồn trưởng ở đây ra sao coi như được khép lại. Mọi người ai cũng niềm nở, tay bắt mặt mừng đối với ông và xem ông như vị thượng khách của làng trong ngày hội này. Nhiều cặp mắt dồn về phía ông. Nhưng đang lúc hành lễ nên việc chào hỏi tạm gác lại. Trước mặt là ba gian thờ, đèn nến sáng trưng, kèn trống rập rình. Lời xướng theo nghi lễ tế thành hoàng làng đĩnh đạc vang lên hoà với tiếng trống, tiếng chiêng rung động cả khoảng không yên lặng, làm cho lễ tế vô cùng uy nghiêm. Một con bò thui và ba con heo quay vàng ươm, béo ngậy được đặt cúng ở chính điện và hai gian thờ hai bên. Dân làng Hạ tập trung về chật cứng trong ngoài. Nét mặt ai nấy rạng rỡ...

Sau lễ tế là tiệc rượu. Nói là rượu, nhưng cả làng được một phen uống bia xả láng. Có Việt kiều về làng mà! Sẵn mang theo mấy chai rượu ngoại đắt tiền, ông Dù đem khui mời làng, làm cho bữa tiệc thêm màu mè, rôm rả.

Cuộc vui đang nửa chừng thì ông Dù cao hứng, tự đứng ra giữa đình làng có đôi lời. Ông hắng giọng, nói: "Thưa làng. Là con dân của làng ở phương xa về, tôi vô cùng cảm kích vì chúng ta đã xây được ngôi đình tráng lệ thế này để thờ phượng các ngài có công với dân với nước...". Thấy nhiều người ngửa mặt lắng nghe, ông Dù tiếp: "... Tôi cũng hết sức cảm động khi nghĩ rằng, nhờ phước đức của các ngài mà dân làng ta nguyên vẹn như hôm nay và xem ra chẳng mấy ai phải chịu nhiều bất hạnh trong cuộc chiến tương tàn vừa qua. Nay tôi về sau 20 năm biệt xứ, đề nghị chúng ta...". Ông Dù vừa nói tới đây thì cả cuộc tiệc bỗng ồn lên, không còn ai nghe ông nói thêm được gì nữa. Có vài tiếng xì xào ở mấy bàn cuối: "Cha này nói mà không biết sờ sau gáy mình!"; "Lão ta nói chối tai thế mà nghe được à!"; "Ối, có tiền đô rủng rỉnh, nói quấy nói quá sao chẳng được!". Ông Dù vừa nói xong thì một anh dân làng ăn mặc tuềnh toàng, mặt đỏ gay, tay cầm ly rượu tiến tới trước mặt ông, hất hàm nói: "Tôi đề nghị ông nói lại đi. Có đúng dân làng này không mấy ai bất hạnh vì chiến tranh, phải không?". Một số vị cao niên biết sẽ có chuyện chẳng lành xảy ra, vội cầm tay anh ta dằn lại: "Thía ơi, mày ngồi xuống nói năng đuề huề một chút được không!". Thía vung tay xô những người can ngăn ra. Bằng cặp mắt có lửa, Thía nhìn thẳng mặt ông Dù, nói như hỏi tội: "Thế ông có biết hồi chiến tranh, ai đã cưỡng hiếp một người đàn bà ở làng này không? Cưỡng hiếp không được, ai đã bày mưu bắt bà ta đày ra bỏ xác ngoài Côn Đảo?". Ông Dù đang chếnh choáng hơi men, chẳng biết người chất vấn mình là ai. Ông trố mắt nhìn anh ta với thái độ thách thức. Giá như ông biết thủ thế để nói năng khôn khéo một chút thì có thể chẳng có chuyện gì lớn xảy ra. Đằng này, do khoái chí bởi một vài người quen thân ngồi quanh xun xoe, tâng bốc nên ông càng tỏ ra yêng hùng của kẻ "bạo vì tiền", đã buột miệng thốt lên: "Nếu điều đó do chính cái người đang đứng trước mặt anh gây ra thì đã sao? Tại sao anh không nói tất cả đều vì chiến tranh tương tàn để quên nó đi, mà lại khêu gợi ở đây làm gì?". Ông Dù nói thế làm Thía đã ngứa gan rồi, nhưng có lẽ còn nhịn được. Không ngờ ông Dù lấn lướt, chỉ tay vào mặt Thía: "Sao anh quá dốt, ăn nói chẳng giống ai bây giờ cả. Vậy anh muốn làm gì tôi nào?". Đang lúc đấu khẩu căng thẳng thì có mấy người sấn tới, nói như thét vào mặt Thía: "Thía! Mày đúng là quân phá đám! Mày ăn nói ngang ngược và vô phép như vậy được à!". Trong cơn điên tiết, lại như có lửa đổ thêm dầu, Thía gạt phăng những kẻ bênh vực ông Dù ra, chồm tới túm lấy ngực áo thụng ông ta, mặc cho nhiều người lao tới cố giải cứu. Đang lúc giằng co, Thía dồn sức vào một cánh tay đẩy ông Dù một cái thật mạnh về phía sau làm đầu ông ta đập vào cột đình, toé máu tai. Ông Dù gục ngay tại chỗ, bất tỉnh nhân sự. Hoảng quá, một số người ôm chặt Thía, ghì lại. Còn ông Dù tức tốc được đưa ra ôtô con đi cấp cứu.

Cuộc tiệc đến đây láo nháo như ong vỡ tổ. Không khí ngày vui của làng phút chốc trở nên nặng nề, nghiêm trọng. Không ít người tỏ ra bực dọc, lặng lẽ bỏ về. Số người ngồi lại tiếp tục cầm đũa nhưng chẳng còn tâm trí nào để vui vẻ với nhau.

Thía bị áp giải ra trụ sở xã để lập biên bản. Hồ sơ ghi rõ: "Trần Thía lâu nay thần kinh bất thường, do uống nhiều bia rượu, lại bị kích động mạnh, đã dẫn đến hành vi phạm tội đánh người gây thương tích". Thía bị quản chế. Sau đó người ta đưa Thía đi khám ở bệnh viện tâm thần, rồi nhập viện luôn. Riêng ông Dù bị chấn thương ở đầu, phải nằm điều trị ở Bệnh viện Thành phố.

Mấy ngày sau, làng Hạ cử một số người lên thành phố thăm và nói lời lỗi phải với ông Dù. Tiện đường, họ tạt vào Bệnh viện tâm thần xem Thía thế nào. Lúc ghé mắt qua chiếc cổng sắt, người ta thấy Thía ngồi một mình ở ghế đá ngoài sân. Phát hiện ra người làng Hạ. Thía nói với vẻ mặt buồn buồn: "Bà con có đến thăm ông Dù, cho tôi gởi lời xin lỗi ông ấy!..."

Mùa đông năm 1954, anh Bài đi tập kết lúc đứa con trai đầu lòng vừa tròn hai tuổi. Tưởng hai năm sau anh sẽ trở về, ai ngờ càng ngày anh càng biệt vô âm tín. Tháng ngày đằng đẵng, chị Ngọt lo tảo tần buôn bán nuôi con. Đã ngoài ba mươi tuổi mà trông chị xuân sắc vẫn căng tròn như thời con gái đẹp nhất của làng Hạ này. Nhiều đấng mày râu trong làng dẫu đã yên bề rồi vẫn thấy thèm khát gạ gẫm, chòng ghẹo làm cho chị phải chịu không ít tai tiếng đồn đãi trong bà con chòm xóm.

Từ ngày về làm đồn trưởng ở đây, tên Dù thường lân la chỗ chị Ngọt. Là bạn học cũ với anh Bài, nhưng hồi "Chín năm", anh Bài "xếp bút nghiên" theo kháng chiến, còn Dù thi mãi bằng thành chung không đỗ, buồn tình quay sang đi lính cho Pháp. Dáng người Dù cao kều. Nước da tái tái. Cứ trông đôi môi mỏng dính, tương phản với cặp lông mày rậm rì nhô ra ở phía trên hai con mắt ti hí, nhìn ai như không muốn mở hết, là đủ biết con người này thuộc hạng háo sắc, lại ranh mãnh không phải vừa.

Sau ngày vào lính, do hăng máu đánh trận nên Dù được thăng cấp rất nhanh. Mới cấp đội, hắn nhảy tót lên cấp quan một trong vòng chưa đầy một năm. Hoà bình lập lại, hắn đeo lon trung uý, chỉ huy một đại đội lính đóng ở giữa làng Hạ, nơi quân Pháp chiếm đất xây đồn từ năm 1947 đến giờ.

Một hôm, tên Dù đến chơi nhà chị Ngọt. Hắn ngồi nhắc chuyện cũ và nói không ngượng miệng với chị Ngọt rằng: "Hồi ấy, anh là kẻ đến trước, nhưng Bài đã thắng vì nó học giỏi lại đẹp trai hơn. Nay Bài đi lạc hướng chẳng biết bao giờ trở về. Anh khuyên Ngọt nên bước đi bước nữa kẻo già mất!". Thấy chị Ngọt im lặng, hắn tưởng xuôi gió thuận buồm, bèn giở giọng sỗ sàng: "Anh tuy vợ rồi, nhưng vợ anh không còn khả năng sinh đẻ được nữa. Vậy Ngọt hãy đồng ý...". Không để cho hắn thừng đưng dài dòng, chị Ngọt đứng dậy, nghiêm mặt: "Tôi là đàn bà có chồng. Anh không được ăn nói bậy bạ như thế!". Tên Dù cụt hứng, đành lủi thủi ra về mà lòng vẫn chưa nguôi ham muốn người phụ nữ đẹp này.

Vào cái đêm trung thu năm ấy, đường làng rộn ràng tiếng trống trẻ em. Dù xăm xăm tìm tới chị Ngọt. Lâu nay hắn cũng muốn cho mọi người nhìn thấy hắn đeo đuổi chị Ngọt, và lấy làm thoả chí khi có ai đó thêu dệt nên chuyện "dan díu" giữa hắn với người đàn bà xinh đẹp này. Vừa đến đầu ngõ, hắn thấy chị Ngọt một mình ngồi khâu vá dưới ánh đèn toả sáng trong nhà. Hắn nhẹ bước vào đứng trước thềm một lúc. Lòng hắn bỗng rạo rực lên, vì chưa bao giờ hắn thấy chị Ngọt quyến rũ và hấp dẫn như lúc này. Hắn vào nhà, lên tiếng chào hỏi rồi chủ động ngồi xuống bên cạnh chị Ngọt và buông lời ong bướm như mọi khi. Chị Ngọt vẫn giữ phép lịch sự tối thiểu đối với hắn. Không ngờ, hắn đột ngột thổi tắt ngọn đèn, dùng sức đè ngửa chị xuống giường. Hắn hôn lấy hôn để lên người đàn bà mà lâu nay hắn thèm khát đến điên cuồng. Hắn vừa thở vừa nói lí nhí không nên lời. Giọng hắn trở nên thều thào, yếu ớt như kẻ van xin. Trong khi hai tay hắn sờ soạng, cào cấu như con thú vồ mồi. Bất ngờ hắn bị một cú hích rất mạnh. Chị Ngọt đã hất hắn đổ ình xuống đất, rồi chạy bổ ra sân, hô hoán lên. Cả xóm tưởng nhà chị có trộm cướp, mọi người đốt đuốc chạy tới làm hắn một phen bẽ mặt, vội chuồn thẳng về đồn, vừa hổ thẹn vừa căm tức lên tận cổ.

Đã không lấy thì khuấy cho hôi; thế mà "lấy" chẳng được, "khuấy" chẳng xong, giờ hắn chỉ còn cách... trả thù.

Thời kỳ này, Mỹ ngụy ở miền Nam đang công khai xé bỏ hiệp định Giơ-ne-vơ và thi hành chính sách tố cộng gắt gao. Ở làng Hạ, bọn tề ngụy càng đục nước béo cò, tìm đủ cách để lung lạc, bôi lem hoặc quy kết rồi bắt tù đày đối với những người kháng chiến hoặc có người thân tập kết ra Bắc. Chị Ngọt là người chịu chung số phận cay đắng ấy.

Những ngày cuối đông năm Bính Thân, trời mưa tầm tã và gió rét căm căm kéo dài cả tháng trời. Dân buôn bán làng Hạ ai nấy tê cóng vẫn phải hối hả nối đuôi nhau đổ về thị tứ từ sáng tinh mơ. Suốt cả năm làm ăn chỉ nhờ vào những ngày giáp tết như thế này.

Sáng nay chị Ngọt dậy sớm. Sau khi lo cho cu Thía xong, chị tất tả quang gánh ra chợ bình thường, mà nào hay đây lại là buổi sáng định mệnh của đời mình.

Vừa trông thấy chị gánh hàng qua ngang qua trước cổng đồn, tên Dù vội cho lính gọi chị vào đồn xét hỏi. Hắn nhìn chị bằng đôi mắt trơ tráo của kẻ cuồng si lại hết sức giảo hoạt trước một người đàn bà mà hắn cố tình chiếm đoạt không thành. Hắn đường đột sấn tới giở trò sàm sỡ với chị ngay trước mặt đám lính. Bị xúc phạm quá trắng trợn và thô lỗ, chị không kìm được bực tức. Sẵn đòn gánh trong tay, chị phang thẳng lên người hắn. Thế là bọn lính đứng đó ập tới, hô hoán lên, rằng bắt quả tang kẻ đột nhập vô đồn để ám hại đồn trưởng. Vốn có tên trong "sổ đen", lại có hành vi phạm pháp rõ ràng, lập tức chị bị bắt ngay tại chỗ, rồi bị đưa lên giam ở lao tỉnh một thời gian. Sau đó chị bị kêu án tù, đày ra Côn Đảo biệt tăm biệt tích.

Khi mẹ đi tù, cu Thía chưa đầy 4 tuổi. Ông bà ngoại phải đem Thía về nuôi. Nhà ngoại nghèo nên Thía chẳng được học hành mấy. Xong lớp ba, Thía phải bỏ học để ở nhà giúp ngoại cắt cỏ, chăn trâu. Tuổi nhỏ kham khổ, cái ăn cái mặc chẳng bằng ai, nhưng Thía vẫn lớn như thổi. Lớn lên, Thía hơi cộc tính và chẳng biết sợ ai bao giờ. Có lần Thía đánh chảy máu miệng thằng Hiệp con ông đội Sừng ở xóm chợ chỉ vì hắn dựa thế cha đi lính Tây để nói xấu gia đình Thía. Đám bạn cùng lứa đều nể mặt Thía vì Thía có sức vóc hơn hẳn bọn chúng và thường "ra tay" dẹp yên bọn choai xóm chợ càn quấy trong làng. Người làng Hạ phần lớn ai cũng thương yêu Thía. Mỗi lần gặp Thía đâu đó, người ta thường nói với nhau: "Đúng là cha nào con nấy!".

Ở tuổi mười lăm mà trông Thía khôi ngô, lực lưỡng chẳng khác nào một thanh niên. Quanh năm bám đồng bám ruộng lo làm lụng vất vả nuôi thân, Thía vẫn ngày đêm mong ngóng ngày đoàn tụ gia đình. Năm Thía hăm hai tuổi là lúc miền Nam hoàn toàn giải phóng. Thía nóng lòng chờ tin mẹ, tin cha từng giờ, từng ngày. Nào ngờ đâu, một cái tin đầy bất hạnh đến với Thía như cú sét ngang trời: trong đoàn người trở về từ Côn Đảo không có mẹ của Thía. Chị ấy đã nằm lại đất đảo vì một cơn bạo bệnh cách đấy mấy tháng. Mấy ngày sau, lại một tin đau đớn nữa đến với Thía: cha của Thía hi sinh trong ngày tiến quân vào giải phóng Sài Gòn xuân 1975. Hai cái tin ập đến một lúc như xé gan xé ruột ấy đã làm Thía bị sốc quá mạnh, ngã gục xuống và trở thành như người mất hồn sau đó. Thía không ăn uống, nằm vật vã mấy ngày liền. Cặp mắt Thía quầng thâm, sưng tấy lên, thể lực giảm sút hẳn. Từ đó về sau, tính tình Thía thay đổi khác thường. Có lúc Thía ăn nói khôn ngoan, hiểu đời hơn trước. Song cũng lắm khi giở chứng, Thía nói năng lung tung, không chuyện nào ra chuyện nào. Những ngày gần đây Thía hay đi lang thang. Nếu ai mời vài ly rượu, lúc say lên, Thía trở nên hung dữ, chửi bới loạn xạ không nể mặt một ai. Dân làng Hạ bảo nhau: Thằng Thía bị thần kinh thật rồi!

Những ngày nằm viện, ông Dù mới hay người hành hung mình ở đình làng Hạ hôm ấy là ai. Ký ức xa xăm của những năm tháng làm đồn trưởng lại hiện về trong ông làm ông giật mình. Có lẽ vì tự cho mình là người có công giúp làng làm nổi ngôi đình to đẹp thế kia, nên ông ăn nói bạo miệng mà không nghĩ đến có một thời ông là kẻ có tội với bao gia đình ở mảnh đất làng Hạ này, trong đó có gia đình anh dân làng hôm nọ. Những ngày nằm viện là những ngày ông hồi tưởng, liên hệ... Rồi ông tự trấn an mình. Bởi, có nhiều chuyện oan nghiệt, đau lòng do chính ông gây nên ở

làng Hạ, nhưng xem ra giờ đây chẳng ai nhắc lại chuyện cũ đầy thù hận ấy làm gì, trừ Thía con bà Ngọt mà ông vừa tỉnh ngộ ra sau cuộc đụng độ hôm ấy.

Bệnh trạng ông Dù không đến nỗi tệ hại lắm nên ông cũng sớm xuất viện để kịp lên máy bay theo chiếc vé khứ hồi. Trước ngày lên đường, ông ghé bệnh viện tâm thần gặp Thía để nói với Thía những điều mà ông đã nghĩ kỹ là cần phải nói vào lúc này.

... Sáng nay, người ta thấy ông Dù dùng ô tô con đưa Thía về làng trước sự ngỡ ngàng của bà con làng Hạ kéo nhau ra ngõ đứng xem. Ông Dù dừng xe, đưa tay chào mọi người với vẻ mặt tươi tỉnh và nụ cười cởi mở như chẳng có chuyện gì xảy ra. Còn Thía thì tỉnh bơ với đôi mắt như vô cảm. Có tiếng xì xào đâu đó trong đám đông: "Chắc hai người họ đã hoà hợp với nhau để khép lại chuyện cũ rồi chứ gì!”.

N.T
(182/04-04)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HOÀNG QUỐC HẢI              Truyện ngắn lịch sửNăm Nhâm Thân (1392) mùa hạ, thượng hoàng Trần Nghệ Tông xuống chiếu “CẦU LỜI NÓI THẲNG”Thường trong nước mỗi khi có đại sự, nhà vua ban chiếu cầu hiền. Mục đích tìm người tài cho nước.

  • KIỀU VƯỢNGĐêm giữa thu. Hà Nội se lạnh. Sao chới với nhưng mây vẫn vũ làm nền trời như khô khốc, nhạt nhòa. Một hồi còi tàu rú dài như thả thêm vào đêm luồng khí lạnh. Quang nhìn đồng hồ sân ga dã quá mười hai giờ khuya.

  • CAO HẠNHTôi sinh ra ở làng quê, lớn lên cũng ở làng quê. Tôi là hạt máu đỏ rơi xuống bùn đất mọc lên một thằng người cùng với ngọn cỏ lá rau, cây lúa và những sinh linh khác. Tôi cùng chịu đựng chia xẻ với chúng ngọn gió Lào cát trắng và những trận mưa dầm dề của xứ miền Trung khắc nghiệt.

  • HỒ ANH THÁI Tác giả thấy cần phải tóm tắt chuyện cô bé quàng khăn đỏ trước, rồi mới kể tiếp phần hậu cô bé quàng khăn đỏ. Con sói đến lừa bà cô bé, nuốt sống bà, rồi mặc váy áo của bà, trùm khăn giả vờ làm bà. Cô bé về nhà, thấy bà rởm mà không biết, cứ hỏi vớ hỏi vẩn sao tai bà to thế, sao mắt bà to thế, sao mồm bà to thế. Sốt ruột. Con sói bèn nuốt chửng luôn cô bé. Nhưng rồi quần chúng tiến bộ tập hợp lại đấu tranh, con sói phải nôn cả bà lẫn cháu ra, hứa cải tà quy chính. Từ đây bắt đầu phần hậu cô bé quàng khăn đỏ…

  • PHẠM XUÂN PHỤNGHọ như không còn trẻ. Người lớn tuổi hơn có khuôn mặt thanh thản vì đã giãn mềm những nếp nhăn. Người trẻ tuổi khuôn mặt nhuốm già bởi màu từng trải và những nét khắc chán chường.

  • MAI HUY THUẬTNằm cuộn tròn trong cái rọ lợn Cuội mới có thì giờ ngẫm nghĩ về cái thân phận của mình. Cả cuộc đời dối trá, lừa gạt bây giờ bị tù hãm sau mấy cái nan tre tưởng như mong manh thế mà càng cựa quậy càng trầy da rách áo, không thể nào thoát được.

  • NGUYỄN VĂN VINH Thường thường, mỗi sớm tôi và các bạn gặp nhau ở quán cà phê vỉa hè. Ngồi vệ đường, không tiếng nhạc quấy phá phút tĩnh tâm để ngẫm ngợi sự đời, quả thú vị! Tôi biết các loại quán đều tiêu phí thời giờ của mình, nhưng quán cà phê ít tốn, ít nguy hiểm hơn quán bia ôm và các toan tính, bon chen trong vòng danh lợi gươm đao nên tôi không bỏ uống cà phê buổi sáng, ngày mình giết một tí, lại được chuyện vãn với nhau: nào thời sự, tin tức trên trời dưới biển, cũng vui!

  • LINH CHIKhi chỉ mới là giọt máu, sự kết hợp của hai nhiễm sắc thể XY bám vào dạ con của mẹ, nó đã không được công nhận. Chào đời, mẹ con nó ở với ông bà ngoại cùng các cậu, các dì cho đến năm nó tròn bảy tuổi. Nhà ngoại nó ở ven triền núi của vùng đồi miền trung du hẻo lánh độ chừng vài ba chục nóc nhà rải rác trên mấy quả đồi đầy hoa sim, hoa mua tím. Chiều chiều nó thường hay tha thẩn trước sân nhà ngắm nhìn những đàn chim bay về tổ, thả hồn theo những đám mây màu cánh vạc đùn lên phía sau dãy núi đối diện nhà ngoại và tưởng tượng, ước ao…

  • TRẦN CHINH VŨAnh nghĩ là mình có thể ngủ được trong đêm nay - ngủ ngon là khác nữa - Đêm qua anh đã ít ngủ rồi - Hơn nữa, cùng với cậu em trai anh lại vừa có cuộc đi chơi đêm ở công viên Đầm Sen, đến muộn mới về. Vậy mà cho đến lúc này, đã qua nửa đêm được ít phút, mắt anh vẫn cứ trơ ra, cứ như thể nó chưa biết khép lại bao giờ.

  • ĐÔNG TRIỀUMười hai giờ đêm.Tôi bước ra khỏi rào lưới sắt còn ngoảnh lại nhìn căn trọ, nơi cửa sổ vẫn phụt ra luồng sáng trắng bởi đèn điện. Tất cả đã im lặng. Tiếng cót két của đôi cánh cửa gỗ mà người thiếu phụ vừa khép lại hòa vào nhịp rơi lộp độp của những giọt sương trên lá, tiếng côn trùng trỗi lên cùng thanh âm mà con chim cú đâu đây vẫn bỏ tiếng rúc đều đều nghe rợn người.

  • PHẠM NGỌC TÚY“Ngày...tháng...nămDòng nhắn tin trên báo cho em biết rằng em đã tìm thấy anh. Cuối cùng thì chúng mình cũng nhận ra nhau. Anh thân yêu. Hôm nay trời không mưa và không nắng. Từ cửa phòng em nhòm ra có một cây trạng nguyên. Cây này nhô lên cao giữa khoảng trời xanh hiếm hoi. Những chiếc lá đến mùa, đỏ thắm màu xác pháo. Nó là cây hoa độc nhất ngoài cửa phòng em.

  • NGUYỄN BẢNHắn đến tôi, mặt thẫn thờ ngơ ngác như người vừa mất của. Tôi hỏi ngay:- Có chuyện gì vậy?- Không, không có chuyện gì.

  • ĐÔNG LA       Sài Gòn mùa mưa, trời lúc nào cũng âm u. Những tán cây sẫm hơn, không khí nóng rát của những tháng cuối mùa khô đã được làm nguội lại, dịu mát. Mấy ngôi nhà cao lênh khênh dường như chỉ cần kiễng chân lên một chút là có thể gội đầu được trong những đám mây sũng nước, là là bay trên đầu.

  • ĐÀO PHONG LAN         Tôi là đứa con gái duy nhất của cha mẹ, và trời cũng ban cho tôi một nỗi bất hạnh để tương xứng với niềm hạnh phúc của một đứa con chắc chắn được cưng chiều: Tôi bị liệt hai chân từ bé.

  • MAI HUY THUẬTCon tàu Thống nhất nhả Văn xuống ga Huế vào một trưa mưa tầm tã khiến Văn chợt thấm thía một câu thơ Tố Hữu:...“ Nỗi niềm chi rứa Huế ơiMà mưa xối xả trắng trời Thừa Thiên?”...

  • NGUYỄN VĂN THANHSau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, tôi không ngờ được Ngọ hỏi làm vợ. Không giống như những cô dâu khác, ngày tôi về nhà chồng có dắt theo một đứa con riêng. Tên nó là Hòa. Ngọ rất thương yêu hai mẹ con tôi. Không có gì đáng trách anh ấy dù cuộc hôn nhân của chúng tôi không bình thường.

  • NGUYỄN LÊ VÂN KHÁNHTôi xa nhà trọ học thành phố khác. Dịp nghỉ ngắn ngày không về nhà được, tôi đón xe về thị trấn men con nước nhánh sông lớn về nhà ngoại. Từ ngoài ngõ con Bơ sủa váng, Vinh chạy ra ôm bụi chè tàu nơi đầu bến nước, gọi mạ ơi, Sương về.

  • NGUYỄN HÙNG SƠN          Một buổi chiều cuối tháng ba trong lúc ngồi bón cháo cho chồng, bà Loan nhận thấy hôm nay Hào, chồng bà có những biểu hiện khác thường. Ông có vẻ suy nghĩ, ăn uống uể oải.

  • LỆ THANHBé Khánh Hạ - đứa con gái duy nhất của chị đã đi! Chiếc lá xanh độc nhất trên thân cây khô héo, khẳng khiu đã lìa cành. Ngọn lửa cuối cùng trong đêm dài trơ trọi của chị đã tắt ngấm trong bỗng chốc. Chị tưởng rằng mình sẽ không thể sống nổi trên cõi đời héo hắt này nữa.

  • HOA NGÕ HẠNHHọ Nguyễn ở Trung Lộc quê gốc huyện Lôi Dương, phủ Thọ Xuân, Thanh Hóa. Gia phả ghi rõ, ông tổ của dòng họ theo chân Chánh đô An phủ sứ Phạm Nhữ Dực vào khai khẩn đất Thăng Hoa năm 1402. Ban đầu họ Nguyễn định cư tại Hương Ly. Đến đời sau, một nhánh trong tộc chuyển hẳn lên Trung Lộc, nằm ở thượng lưu sông Thu Bồn.