Chuyện ở làng Hạ

09:49 30/07/2009
NGUYỄN TRƯỜNGLàng Hạ nằm phía hạ nguồn sông La Ngà. Đất chật. Người đông. Đói nghèo thành nếp. Hồi hai bên đánh nhau, nơi đây là vùng địch hậu. Giải phóng hơn chục năm mà làng Hạ đói nghèo vẫn hoàn nghèo đói. Không ít người bỏ làng đi xa chẳng thèm ngoái cổ nhìn lại. Vậy mà hơn mười năm lại đây, nhờ vực dậy cái nghề tơ tằm truyền thống vốn có từ xưa, làng Hạ đang trở thành một làng nghề giàu có nhất nhì trong vùng. Nhà cũ lỗi thời phá đi xây mới. Đường làng bùn lầy được thay bê-tông. Trường tiểu học tranh tre nứa lá hồi nào nay lên hai tầng. Điện lưới dọc ngang khắp làng đã đẩy năng suất ươm tơ kéo sợi lên cao chưa từng thấy. Chất lượng tơ tằm đạt chuẩn xuất khẩu. Hàng bán chạy hơn cả tôm tươi. Thu nhập người dân ngày một cao.

Minh họa: Đặng Mậu Tựu

Làng Hạ đổi đời. Nom ai cũng có máu mặt.
Phú quý tất sinh lễ nghĩa. Và lễ nghĩa hợp cái tâm người làng Hạ lúc này là dỡ bỏ ngôi đình làng lâu nay hoang phế để xây ngôi đình mới to đẹp hơn. Thế là chuyện được đem ra bàn. Cả làng Hạ ngàn người như một: không để thua đình làng Thượng vừa xây xong. Đúng quá! Hoan hô! Nhưng ngót một trăm rưỡi triệu lấy đâu ra? Ối! Lo bò trắng răng! Có gì ghê gớm lắm đâu! Hô một tiếng là êm ngay thôi mà!

Quả vậy, "Tâm thư" của làng "thống thiết" đến nỗi mới phát ra chưa đầy nửa tháng mà "hảo tâm" của người làng Hạ ở trong nước và ở cả nước ngoài đã vượt ngoài dự đoán: hai trăm triệu có thừa! Trong số dân làng hiện ở nước ngoài gửi tiền về giúp làm đình có ông Dù là vượt trội hơn hết.

Tháng 5 năm Quý Mùi khởi công xây đình. đến giữa tháng 8 là hoàn tất đâu vào đấy. Một ngôi đình cao to đường bệ, đẹp lộng lẫy, biểu tượng cho truyền thống văn hoá làng và sự phát đạt của một làng quê đang soi bóng lung linh bên bờ sông La Ngà, khiến cả làng Hạ những ngày này vui như có hội.

Ngày khánh thành đình làng kết hợp với thu tế cũng đã đến. Nhận được thư mời, ông Dù từ nước ngoài bay về. Ông về sớm mấy ngày đợi chờ trên thành phố. Sáng nay ông đi ô tô con về làng dự lễ. Chẳng may bị kẹt xe giữa đường nên ông tới chậm không kịp dự lễ khánh thành mà chỉ kịp dự lễ tế mà thôi. Ông vội vã thay bộ com-lê để mặc vào bộ y phục truyền thống, rồi hoà vào đám bô lão đang khăn áo chỉnh tề đứng phủ phục trước hương linh các ngài khai canh khai khẩn nên làng Hạ này.

Chuyện ông Dù ngày xưa đi lính làm đồn trưởng ở đây ra sao coi như được khép lại. Mọi người ai cũng niềm nở, tay bắt mặt mừng đối với ông và xem ông như vị thượng khách của làng trong ngày hội này. Nhiều cặp mắt dồn về phía ông. Nhưng đang lúc hành lễ nên việc chào hỏi tạm gác lại. Trước mặt là ba gian thờ, đèn nến sáng trưng, kèn trống rập rình. Lời xướng theo nghi lễ tế thành hoàng làng đĩnh đạc vang lên hoà với tiếng trống, tiếng chiêng rung động cả khoảng không yên lặng, làm cho lễ tế vô cùng uy nghiêm. Một con bò thui và ba con heo quay vàng ươm, béo ngậy được đặt cúng ở chính điện và hai gian thờ hai bên. Dân làng Hạ tập trung về chật cứng trong ngoài. Nét mặt ai nấy rạng rỡ...

Sau lễ tế là tiệc rượu. Nói là rượu, nhưng cả làng được một phen uống bia xả láng. Có Việt kiều về làng mà! Sẵn mang theo mấy chai rượu ngoại đắt tiền, ông Dù đem khui mời làng, làm cho bữa tiệc thêm màu mè, rôm rả.

Cuộc vui đang nửa chừng thì ông Dù cao hứng, tự đứng ra giữa đình làng có đôi lời. Ông hắng giọng, nói: "Thưa làng. Là con dân của làng ở phương xa về, tôi vô cùng cảm kích vì chúng ta đã xây được ngôi đình tráng lệ thế này để thờ phượng các ngài có công với dân với nước...". Thấy nhiều người ngửa mặt lắng nghe, ông Dù tiếp: "... Tôi cũng hết sức cảm động khi nghĩ rằng, nhờ phước đức của các ngài mà dân làng ta nguyên vẹn như hôm nay và xem ra chẳng mấy ai phải chịu nhiều bất hạnh trong cuộc chiến tương tàn vừa qua. Nay tôi về sau 20 năm biệt xứ, đề nghị chúng ta...". Ông Dù vừa nói tới đây thì cả cuộc tiệc bỗng ồn lên, không còn ai nghe ông nói thêm được gì nữa. Có vài tiếng xì xào ở mấy bàn cuối: "Cha này nói mà không biết sờ sau gáy mình!"; "Lão ta nói chối tai thế mà nghe được à!"; "Ối, có tiền đô rủng rỉnh, nói quấy nói quá sao chẳng được!". Ông Dù vừa nói xong thì một anh dân làng ăn mặc tuềnh toàng, mặt đỏ gay, tay cầm ly rượu tiến tới trước mặt ông, hất hàm nói: "Tôi đề nghị ông nói lại đi. Có đúng dân làng này không mấy ai bất hạnh vì chiến tranh, phải không?". Một số vị cao niên biết sẽ có chuyện chẳng lành xảy ra, vội cầm tay anh ta dằn lại: "Thía ơi, mày ngồi xuống nói năng đuề huề một chút được không!". Thía vung tay xô những người can ngăn ra. Bằng cặp mắt có lửa, Thía nhìn thẳng mặt ông Dù, nói như hỏi tội: "Thế ông có biết hồi chiến tranh, ai đã cưỡng hiếp một người đàn bà ở làng này không? Cưỡng hiếp không được, ai đã bày mưu bắt bà ta đày ra bỏ xác ngoài Côn Đảo?". Ông Dù đang chếnh choáng hơi men, chẳng biết người chất vấn mình là ai. Ông trố mắt nhìn anh ta với thái độ thách thức. Giá như ông biết thủ thế để nói năng khôn khéo một chút thì có thể chẳng có chuyện gì lớn xảy ra. Đằng này, do khoái chí bởi một vài người quen thân ngồi quanh xun xoe, tâng bốc nên ông càng tỏ ra yêng hùng của kẻ "bạo vì tiền", đã buột miệng thốt lên: "Nếu điều đó do chính cái người đang đứng trước mặt anh gây ra thì đã sao? Tại sao anh không nói tất cả đều vì chiến tranh tương tàn để quên nó đi, mà lại khêu gợi ở đây làm gì?". Ông Dù nói thế làm Thía đã ngứa gan rồi, nhưng có lẽ còn nhịn được. Không ngờ ông Dù lấn lướt, chỉ tay vào mặt Thía: "Sao anh quá dốt, ăn nói chẳng giống ai bây giờ cả. Vậy anh muốn làm gì tôi nào?". Đang lúc đấu khẩu căng thẳng thì có mấy người sấn tới, nói như thét vào mặt Thía: "Thía! Mày đúng là quân phá đám! Mày ăn nói ngang ngược và vô phép như vậy được à!". Trong cơn điên tiết, lại như có lửa đổ thêm dầu, Thía gạt phăng những kẻ bênh vực ông Dù ra, chồm tới túm lấy ngực áo thụng ông ta, mặc cho nhiều người lao tới cố giải cứu. Đang lúc giằng co, Thía dồn sức vào một cánh tay đẩy ông Dù một cái thật mạnh về phía sau làm đầu ông ta đập vào cột đình, toé máu tai. Ông Dù gục ngay tại chỗ, bất tỉnh nhân sự. Hoảng quá, một số người ôm chặt Thía, ghì lại. Còn ông Dù tức tốc được đưa ra ôtô con đi cấp cứu.

Cuộc tiệc đến đây láo nháo như ong vỡ tổ. Không khí ngày vui của làng phút chốc trở nên nặng nề, nghiêm trọng. Không ít người tỏ ra bực dọc, lặng lẽ bỏ về. Số người ngồi lại tiếp tục cầm đũa nhưng chẳng còn tâm trí nào để vui vẻ với nhau.

Thía bị áp giải ra trụ sở xã để lập biên bản. Hồ sơ ghi rõ: "Trần Thía lâu nay thần kinh bất thường, do uống nhiều bia rượu, lại bị kích động mạnh, đã dẫn đến hành vi phạm tội đánh người gây thương tích". Thía bị quản chế. Sau đó người ta đưa Thía đi khám ở bệnh viện tâm thần, rồi nhập viện luôn. Riêng ông Dù bị chấn thương ở đầu, phải nằm điều trị ở Bệnh viện Thành phố.

Mấy ngày sau, làng Hạ cử một số người lên thành phố thăm và nói lời lỗi phải với ông Dù. Tiện đường, họ tạt vào Bệnh viện tâm thần xem Thía thế nào. Lúc ghé mắt qua chiếc cổng sắt, người ta thấy Thía ngồi một mình ở ghế đá ngoài sân. Phát hiện ra người làng Hạ. Thía nói với vẻ mặt buồn buồn: "Bà con có đến thăm ông Dù, cho tôi gởi lời xin lỗi ông ấy!..."

Mùa đông năm 1954, anh Bài đi tập kết lúc đứa con trai đầu lòng vừa tròn hai tuổi. Tưởng hai năm sau anh sẽ trở về, ai ngờ càng ngày anh càng biệt vô âm tín. Tháng ngày đằng đẵng, chị Ngọt lo tảo tần buôn bán nuôi con. Đã ngoài ba mươi tuổi mà trông chị xuân sắc vẫn căng tròn như thời con gái đẹp nhất của làng Hạ này. Nhiều đấng mày râu trong làng dẫu đã yên bề rồi vẫn thấy thèm khát gạ gẫm, chòng ghẹo làm cho chị phải chịu không ít tai tiếng đồn đãi trong bà con chòm xóm.

Từ ngày về làm đồn trưởng ở đây, tên Dù thường lân la chỗ chị Ngọt. Là bạn học cũ với anh Bài, nhưng hồi "Chín năm", anh Bài "xếp bút nghiên" theo kháng chiến, còn Dù thi mãi bằng thành chung không đỗ, buồn tình quay sang đi lính cho Pháp. Dáng người Dù cao kều. Nước da tái tái. Cứ trông đôi môi mỏng dính, tương phản với cặp lông mày rậm rì nhô ra ở phía trên hai con mắt ti hí, nhìn ai như không muốn mở hết, là đủ biết con người này thuộc hạng háo sắc, lại ranh mãnh không phải vừa.

Sau ngày vào lính, do hăng máu đánh trận nên Dù được thăng cấp rất nhanh. Mới cấp đội, hắn nhảy tót lên cấp quan một trong vòng chưa đầy một năm. Hoà bình lập lại, hắn đeo lon trung uý, chỉ huy một đại đội lính đóng ở giữa làng Hạ, nơi quân Pháp chiếm đất xây đồn từ năm 1947 đến giờ.

Một hôm, tên Dù đến chơi nhà chị Ngọt. Hắn ngồi nhắc chuyện cũ và nói không ngượng miệng với chị Ngọt rằng: "Hồi ấy, anh là kẻ đến trước, nhưng Bài đã thắng vì nó học giỏi lại đẹp trai hơn. Nay Bài đi lạc hướng chẳng biết bao giờ trở về. Anh khuyên Ngọt nên bước đi bước nữa kẻo già mất!". Thấy chị Ngọt im lặng, hắn tưởng xuôi gió thuận buồm, bèn giở giọng sỗ sàng: "Anh tuy vợ rồi, nhưng vợ anh không còn khả năng sinh đẻ được nữa. Vậy Ngọt hãy đồng ý...". Không để cho hắn thừng đưng dài dòng, chị Ngọt đứng dậy, nghiêm mặt: "Tôi là đàn bà có chồng. Anh không được ăn nói bậy bạ như thế!". Tên Dù cụt hứng, đành lủi thủi ra về mà lòng vẫn chưa nguôi ham muốn người phụ nữ đẹp này.

Vào cái đêm trung thu năm ấy, đường làng rộn ràng tiếng trống trẻ em. Dù xăm xăm tìm tới chị Ngọt. Lâu nay hắn cũng muốn cho mọi người nhìn thấy hắn đeo đuổi chị Ngọt, và lấy làm thoả chí khi có ai đó thêu dệt nên chuyện "dan díu" giữa hắn với người đàn bà xinh đẹp này. Vừa đến đầu ngõ, hắn thấy chị Ngọt một mình ngồi khâu vá dưới ánh đèn toả sáng trong nhà. Hắn nhẹ bước vào đứng trước thềm một lúc. Lòng hắn bỗng rạo rực lên, vì chưa bao giờ hắn thấy chị Ngọt quyến rũ và hấp dẫn như lúc này. Hắn vào nhà, lên tiếng chào hỏi rồi chủ động ngồi xuống bên cạnh chị Ngọt và buông lời ong bướm như mọi khi. Chị Ngọt vẫn giữ phép lịch sự tối thiểu đối với hắn. Không ngờ, hắn đột ngột thổi tắt ngọn đèn, dùng sức đè ngửa chị xuống giường. Hắn hôn lấy hôn để lên người đàn bà mà lâu nay hắn thèm khát đến điên cuồng. Hắn vừa thở vừa nói lí nhí không nên lời. Giọng hắn trở nên thều thào, yếu ớt như kẻ van xin. Trong khi hai tay hắn sờ soạng, cào cấu như con thú vồ mồi. Bất ngờ hắn bị một cú hích rất mạnh. Chị Ngọt đã hất hắn đổ ình xuống đất, rồi chạy bổ ra sân, hô hoán lên. Cả xóm tưởng nhà chị có trộm cướp, mọi người đốt đuốc chạy tới làm hắn một phen bẽ mặt, vội chuồn thẳng về đồn, vừa hổ thẹn vừa căm tức lên tận cổ.

Đã không lấy thì khuấy cho hôi; thế mà "lấy" chẳng được, "khuấy" chẳng xong, giờ hắn chỉ còn cách... trả thù.

Thời kỳ này, Mỹ ngụy ở miền Nam đang công khai xé bỏ hiệp định Giơ-ne-vơ và thi hành chính sách tố cộng gắt gao. Ở làng Hạ, bọn tề ngụy càng đục nước béo cò, tìm đủ cách để lung lạc, bôi lem hoặc quy kết rồi bắt tù đày đối với những người kháng chiến hoặc có người thân tập kết ra Bắc. Chị Ngọt là người chịu chung số phận cay đắng ấy.

Những ngày cuối đông năm Bính Thân, trời mưa tầm tã và gió rét căm căm kéo dài cả tháng trời. Dân buôn bán làng Hạ ai nấy tê cóng vẫn phải hối hả nối đuôi nhau đổ về thị tứ từ sáng tinh mơ. Suốt cả năm làm ăn chỉ nhờ vào những ngày giáp tết như thế này.

Sáng nay chị Ngọt dậy sớm. Sau khi lo cho cu Thía xong, chị tất tả quang gánh ra chợ bình thường, mà nào hay đây lại là buổi sáng định mệnh của đời mình.

Vừa trông thấy chị gánh hàng qua ngang qua trước cổng đồn, tên Dù vội cho lính gọi chị vào đồn xét hỏi. Hắn nhìn chị bằng đôi mắt trơ tráo của kẻ cuồng si lại hết sức giảo hoạt trước một người đàn bà mà hắn cố tình chiếm đoạt không thành. Hắn đường đột sấn tới giở trò sàm sỡ với chị ngay trước mặt đám lính. Bị xúc phạm quá trắng trợn và thô lỗ, chị không kìm được bực tức. Sẵn đòn gánh trong tay, chị phang thẳng lên người hắn. Thế là bọn lính đứng đó ập tới, hô hoán lên, rằng bắt quả tang kẻ đột nhập vô đồn để ám hại đồn trưởng. Vốn có tên trong "sổ đen", lại có hành vi phạm pháp rõ ràng, lập tức chị bị bắt ngay tại chỗ, rồi bị đưa lên giam ở lao tỉnh một thời gian. Sau đó chị bị kêu án tù, đày ra Côn Đảo biệt tăm biệt tích.

Khi mẹ đi tù, cu Thía chưa đầy 4 tuổi. Ông bà ngoại phải đem Thía về nuôi. Nhà ngoại nghèo nên Thía chẳng được học hành mấy. Xong lớp ba, Thía phải bỏ học để ở nhà giúp ngoại cắt cỏ, chăn trâu. Tuổi nhỏ kham khổ, cái ăn cái mặc chẳng bằng ai, nhưng Thía vẫn lớn như thổi. Lớn lên, Thía hơi cộc tính và chẳng biết sợ ai bao giờ. Có lần Thía đánh chảy máu miệng thằng Hiệp con ông đội Sừng ở xóm chợ chỉ vì hắn dựa thế cha đi lính Tây để nói xấu gia đình Thía. Đám bạn cùng lứa đều nể mặt Thía vì Thía có sức vóc hơn hẳn bọn chúng và thường "ra tay" dẹp yên bọn choai xóm chợ càn quấy trong làng. Người làng Hạ phần lớn ai cũng thương yêu Thía. Mỗi lần gặp Thía đâu đó, người ta thường nói với nhau: "Đúng là cha nào con nấy!".

Ở tuổi mười lăm mà trông Thía khôi ngô, lực lưỡng chẳng khác nào một thanh niên. Quanh năm bám đồng bám ruộng lo làm lụng vất vả nuôi thân, Thía vẫn ngày đêm mong ngóng ngày đoàn tụ gia đình. Năm Thía hăm hai tuổi là lúc miền Nam hoàn toàn giải phóng. Thía nóng lòng chờ tin mẹ, tin cha từng giờ, từng ngày. Nào ngờ đâu, một cái tin đầy bất hạnh đến với Thía như cú sét ngang trời: trong đoàn người trở về từ Côn Đảo không có mẹ của Thía. Chị ấy đã nằm lại đất đảo vì một cơn bạo bệnh cách đấy mấy tháng. Mấy ngày sau, lại một tin đau đớn nữa đến với Thía: cha của Thía hi sinh trong ngày tiến quân vào giải phóng Sài Gòn xuân 1975. Hai cái tin ập đến một lúc như xé gan xé ruột ấy đã làm Thía bị sốc quá mạnh, ngã gục xuống và trở thành như người mất hồn sau đó. Thía không ăn uống, nằm vật vã mấy ngày liền. Cặp mắt Thía quầng thâm, sưng tấy lên, thể lực giảm sút hẳn. Từ đó về sau, tính tình Thía thay đổi khác thường. Có lúc Thía ăn nói khôn ngoan, hiểu đời hơn trước. Song cũng lắm khi giở chứng, Thía nói năng lung tung, không chuyện nào ra chuyện nào. Những ngày gần đây Thía hay đi lang thang. Nếu ai mời vài ly rượu, lúc say lên, Thía trở nên hung dữ, chửi bới loạn xạ không nể mặt một ai. Dân làng Hạ bảo nhau: Thằng Thía bị thần kinh thật rồi!

Những ngày nằm viện, ông Dù mới hay người hành hung mình ở đình làng Hạ hôm ấy là ai. Ký ức xa xăm của những năm tháng làm đồn trưởng lại hiện về trong ông làm ông giật mình. Có lẽ vì tự cho mình là người có công giúp làng làm nổi ngôi đình to đẹp thế kia, nên ông ăn nói bạo miệng mà không nghĩ đến có một thời ông là kẻ có tội với bao gia đình ở mảnh đất làng Hạ này, trong đó có gia đình anh dân làng hôm nọ. Những ngày nằm viện là những ngày ông hồi tưởng, liên hệ... Rồi ông tự trấn an mình. Bởi, có nhiều chuyện oan nghiệt, đau lòng do chính ông gây nên ở

làng Hạ, nhưng xem ra giờ đây chẳng ai nhắc lại chuyện cũ đầy thù hận ấy làm gì, trừ Thía con bà Ngọt mà ông vừa tỉnh ngộ ra sau cuộc đụng độ hôm ấy.

Bệnh trạng ông Dù không đến nỗi tệ hại lắm nên ông cũng sớm xuất viện để kịp lên máy bay theo chiếc vé khứ hồi. Trước ngày lên đường, ông ghé bệnh viện tâm thần gặp Thía để nói với Thía những điều mà ông đã nghĩ kỹ là cần phải nói vào lúc này.

... Sáng nay, người ta thấy ông Dù dùng ô tô con đưa Thía về làng trước sự ngỡ ngàng của bà con làng Hạ kéo nhau ra ngõ đứng xem. Ông Dù dừng xe, đưa tay chào mọi người với vẻ mặt tươi tỉnh và nụ cười cởi mở như chẳng có chuyện gì xảy ra. Còn Thía thì tỉnh bơ với đôi mắt như vô cảm. Có tiếng xì xào đâu đó trong đám đông: "Chắc hai người họ đã hoà hợp với nhau để khép lại chuyện cũ rồi chứ gì!”.

N.T
(182/04-04)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LÊ MINH PHONG

    Người đàn ông miền quê lại dừng xe để sờ lên xác vợ mình. “Còn ấm lắm em à.” Ông nói và bỏ mặc những ánh mắt sợ hãi của dòng người trên phố. “Ta về thôi em.” Người đàn ông nói.

  • PHẠM DUY NGHĨA

    Chiếc áo kẻ màu tím sẫm.
    Một chiều thu ảm đạm tôi rời công sở sớm hơn thường lệ. Trên đường về qua khu chợ ven đô, tôi quyết định tìm mua một chiếc áo hàng thùng.

  • CUNG TÍCH BIỀN

    Dòng họ Trần cụ Lội được tiếng là sống lâu, ai nấy thân thể cường tráng, tính tình có hơi ương ngạnh nhưng tình dục rất bền.

  • TRẦN BẢO ĐỊNH

    Phận má hồng

    “Trời xanh quen thói má hồng
    đánh ghen”
    (Truyện Kiều)

  • VŨ VĂN SONG TOÀN

    Pháp trường.
    Cơn mưa thu bất thần ập xuống. Bãi hành quyết lấp xấp nước. Dòng nước trộn máu đỏ chảy về phía bờ sông. Cờ phướn phấp phơ trong gió lạnh. Mùi tanh lợm cuốn đi bốn phía.

  • MỘC MIÊN

    “Trời ơi là trời, sao tôi khổ vậy trời! Mày báo tao gần ba mươi năm trời chưa đủ sao?”

  • TRU SA

    Tôi từ sớm để chuẩn bị cho ngày hôm nay. Để mọi chuyện thuận lợi, tôi đã phải bước đi thật rón rén, tránh những âm thanh quá lớn có thể đánh thức bà ta.

  • TRẦN BĂNG KHUÊ

    1.
    Mùa hè sắp hết.
    Và cơn hấp hối của kẻ sắp rời khỏi thế gian bạc nhược.

  • HÀ KHÁNH LINH

    Làn sóng người mỗi lúc một dày hơn, ai cũng lách mình cố tìm một vị trí thuận lợi hơn để thưởng thức các tiết mục quá hay quá đẹp…

  • PHẠM DUY NGHĨA

    1.
    Nhà tôi ở trong thung lũng. Nhiều năm trước, khi tôi còn là một cô gái nhỏ, vùng tôi ở được chứng kiến một sự lạ thường.

  • VĨNH NGUYÊN

    Cho đến bây giờ, người dân hai làng Vĩnh Tuy, Trung Trinh đều không biết hai ông Kẻ Khoán họ gì, tên gì? Chỉ biết rằng họ rất “nổi tiếng”. Nhân một mâu thuẫn về đất ruộng, hai ông cãi nhau, đánh nhau đến kiệt sức rồi chết cùng một lúc ngoài đồng. Họ thành nấm mộ chung, còn gọi Mả Ngài!

  • TRẦN THÙY MAI

    Bây giờ, Ng. cũng không nhớ tại sao hai người lại chọn cái thị trấn xơ xác ấy làm nơi gặp gỡ. Mười năm trước họ không biết gì về nó, ngoài địa danh bất chợt nhặt ra từ trí nhớ mông lung, địa danh mơ hồ, gợi lên một vùng đất xa xôi ven biển.

  • NHỤY NGUYÊN

    Sao tôi không dừng lại. Tại sao tôi vẫn bước trong lúc nàng phía sau. Lùi xa hun hút. Sao tôi không lội ngược ký ức vớt nàng lên dưới những tiềm thức vọng động. Sao nàng lại ẩn dưới bề sâu tâm thức tôi.

  • PHẠM THỊ THÚY QUỲNH

    Bệnh viện tựa chú voi trắng rầu rĩ, rệu rã vì tật bệnh và mùi thuốc bứ đặc. Ngoài nhà chờ, la liệt người nằm trên những chiếc ghế gỗ dài đã mục ruỗng, vài người nhà bệnh nhân ủ rũ tựa vào thành ghế chờ đợi tới lượt làm các xét nghiệm cần thiết để thân nhân kịp tiến hành thủ thuật hòng duy trì mạng sống.

  • NGUYÊN QUÂN

    Cô gái dân tộc Pshi, cúi thấp xuống, ánh đèn neon màu nhợt nhạt không khỏa lấp nước da ngăm đen và đôi mắt tròn láy.

  • TRẦN BĂNG KHUÊ

    Tôi đã nghĩ đến hắn, rất nhiều.
    Mọi khoảnh khắc tôi có, hoặc ở những nơi tôi đến, chốn nào tôi biết hắn sẽ đi qua.

  • ĐINH PHƯƠNG  

    Nếu tôi trượt tay buông mình ra khỏi cơn mưa. Cơn mưa sẽ không còn là tôi nữa. Tôi hoặc cơn mưa lẫn vào nhau bay trong nền trời xám. Sự đứt đoạn nằm rất rõ ở giữa tôi và cơn mưa nhưng trên phố chẳng ai nhận ra…

  • HỒ TRUNG LIÊN

    Mặt anh hầm hầm, chẳng đi làm, cũng không gọi điện xin phép. Ăn sáng xong anh ngồi vào bàn bật máy tính. Hình nền con mèo xuất hiện. Nó nhìn anh rất lạ, đôi mắt tinh anh ngờ vực người đối diện mình, có lẽ muốn nhảy.

  • DƯƠNG THÀNH VŨ

    Tôi vốn mê văn chương, lòng say mê ấy không giúp tôi viết được một câu thơ đoạn văn nào cho ra hồn nhưng lại khiến tôi trở thành kẻ bán sách cũ ở vỉa hè.

  • TRU SA

    Wol viết những dòng dài và đăng Facebook. Ảnh, video, tin nhắn và các mối quan hệ là những gì chúng ta có được. Trang cá nhân là khu tự trị của riêng Wol.