Chuyện người bay

08:35 12/07/2011
DẠ NGÂN Sau giấc ngủ trưa, hai chiếc gối kê cao trên đầu giường, tôi bắt đầu buổi làm việc tại nhà như vậy. Đó là sự nhân nhượng của toà báo với những biên tập viên cao niên và tôi, cũng như nhiều đồng lứa trong giới, tận hưởng đặc quyền đó bằng trách nhiệm tự giác thường trực.

Nhà văn Dạ Ngân - Ảnh: internet

[if gte mso 9]> Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 <![endif][if gte mso 9]> <![endif][if gte mso 10]> <![endif]

Tôi thích những thời khắc này, thời khắc sau khi được ngủ đủ trong căn hộ của mình, được nán lại trên gối với chao đèn bên cạnh và được lật giở một cách chậm rãi chồng bản thảo mỗi ngày vừa mang từ công sở về. Không thể lần lựa với nó vì ban đêm là thời gian của riêng mình và sáng hôm sau thì đã là một chồng bản thảo khác từ văn thư chuyển lên. Những chồng bản thảo muôn hình muôn vẻ, phần lớn được vi tính hoá trên một mặt giấy A4 trang trọng, thảng hoặc có bản viết tay hoặc nắn nót hoặc rất tháo của người già, đôi khi có cả bản đánh máy với thứ chữ mòn vẹt trên những tờ pơ-luya cũ như trái đất. Giữa những hàng chữ là thế sự, nỗi niềm, tâm trạng, thể nghiệm, tinh khôi, đường mòn, trau chuốt, vụng về… đủ cả. Nhiều lúc tôi thấy ê vai như phải gánh một gánh nặng mỗi ngày, nhưng cũng không ít lần thấy mình may mắn được tắm trong chữ và nghĩa từ những người quen và không quen khắp nơi kỳ vọng gửi về.

Một bản thảo viết tay bằng mực bic tím trên giấy học trò lưu ý tôi. Truyện có tên là “Phải rời tàu” còn tên tác giả, xin lỗi người viết và cả người đọc, tên của tác giả chưa kịp lưu vào bộ nhớ của tôi thì đã phải biến mất vì một lý do kỳ cục mà tôi sẽ kể sau. Bằng linh cảm, tôi biết đây là những trang viết thành tâm, kỹ lưỡng và tôi hay ngắm nghía chúng trước khi bị chúng kéo đi, như kiểu chúng ta thường dừng lại để ghi nhận trước khi bắt chuyện một người chưa quen mà mình biết là rất đáng tin. Nét chữ đàn ông đứng tuổi chân phương rành mạch, càng đọc càng thấy ngỡ ngàng bởi sự chính xác của cảm xúc với từng cái dấu chấm, dấu phẩy. Chúng tôi thường thận trọng với hai chữ “tài năng” khi nhận định về những tác giả mới toanh nhưng đây là một năng lực tiềm tàng gửi vào văn xuôi những trải nghiệm cuộc đời; nếu được in thì chúng tôi chỉ là người có công khơi mạch, còn như bản thảo biến mất trong im lặng thì người ấy có thể sẽ lại là vô danh, bí ẩn ngay giữa đời thường. Hiếm khi chúng tôi gặp được một cốt cách như vậy, và khi đã, thì sự thú vị sẽ khiến tôi bần thần vương vấn suốt mấy ngày liền, hiện tượng “chấn thương cảm xúc”.

[if gte mso 9]> Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 <![endif][if gte mso 9]> <![endif][if gte mso 10]> <![endif]Minh họa: Thái Ngọc Thảo Nguyên

Nhân vật Tôi trong “Phải rời tàu” là một thuỷ thủ lành nghề, gắn bó suốt thời trai trẻ với một chiếc tàu viễn dương. Thú vị rồi đây. Nhưng không có chuyện “đấu đá” trong nhóm này nhóm kia, không có chuyện hàng lậu hay hàng hợp pháp, cũng không có chuyện gái gú ở những hải cảng dọc đường. Hoàn toàn những kỷ niệm phong sương tươi đẹp, những dòng viết về biển da diết tột cùng tôi chưa từng đọc thấy như vậy ở đâu. Và một tâm trạng xuyên suốt u buồn. Trong một lần thả bộ dọc bến cảng khi đã bị thải lên bờ vì tuổi cao sức yếu, nhân vật bỗng gặp lại con tàu yêu dấu đang gỉ sét trong ụ và anh ta nghe thấy một cuộc mua bán sắt vụn. Anh ta không để tâm đến giá cả, anh ta chỉ thấy người đang gạ mua con tàu là một gã bệ rạc, vô học, tham lam. Anh ta đã không chịu nổi điều đó! Tác giả đã khiến tôi bị thôi miên, từ đó phản ứng nào của nhân vật cũng làm cho tôi ngây ngất đồng tình: dù con tàu có là một đống sắt vụn đi nữa thì cũng không thể bán đứng nó cho một gã lưu manh mạt hạng như vậy!

Không một chữ thừa. Như thế là cao thủ. Vừa ngắn vừa dày lại vừa có ý tại ngôn ngoại. Sáng sớm hôm sau tôi đón đầu Sếp ở ngay bàn làm việc của ông ta, sở dĩ phải tóm được Sếp ngay từ đầu giờ là vì ông này rất chịu khó đi họp. Trước khi tôi được nhận về toà báo, vài người nghỉ hưu đã căn dặn hãy cảnh giác với cái bệnh yêu ghế của ông ta. Tôi chặc lưỡi, ghế của ổng thì ổng giữ, mình có tranh giành đâu mà giữ ý, mình hăm hở, mình sáng rõ, lo chi! Tôi lấy giọng anh em thân tình hổn hển ngợi ca truyện ngắn của một tác giả mới trình làng và có thể người ấy đang sinh sống ở Hải Phòng hay Quảng Ninh gì đó. Sếp mau miệng: “Thế a, tuyệt vời tuyệt vời, yên tâm, anh sẽ đọc sớm!”. Tôi nằn nì: “Trưa nay sếp nhá, đầu tuần, nếu được mình xếp số luôn, quá đẹp!”. Giá như tôi biết rõ hơn về lão Sếp hay “tuyệt vời” này thì tôi đã photo một bản để không phải lấn cấn cái nợ ân tình như tôi chịu đựng từ bấy đến nay.

Không như mọi ngày, hôm ấy tôi quyết định ở lại cơ quan để đầu giờ chiều săn đón Sếp trước khi ông ta lại cắp cặp đi họp. Nhưng tôi đã nhận được gì? Một bộ dạng lóng ngóng trên đống bản thảo và công văn ngập tới mũi, một bộ mặt không dám chiếu thẳng vào tôi và hai hàm răng nghiến lại bất thường: “Phải rời tàu à, muốn rời chiếc tàu nào đây, in lên để rồi chết cả lũ ha?” Cơn giận đã cho tôi thấy ông ta không hèn, ít nhất cũng còn biết làm ra giận để chứng tỏ ta đây sợ chứ không phải hèn! Nhưng liệu ông ta có được liệt vào hạng “hèn đại nhân” không nhỉ? Vừa đắng vừa cay, tôi chỉ xin thu lại cái bản thảo chưa kịp photo ấy, cách ứng xử tối thiểu mà những người đi trước đã mách nước với những tác phẩm “độc”. Ông ta lục lạo hồi lâu, kêu chết chết - quá siêu, cái chiêu “lạc bản thảo” này dễ sử dụng nhất vì nó dễ được cảm thông nhất!

Tôi nhớ mãi “Phải rời tàu” như nhớ một con người tri kỷ mà tôi chưa được diện kiến. Tôi nợ người ấy rất nhiều do tôi đã không đích thân lưu vào sổ biên tập địa chỉ của người gửi bài thường có trên phong bì. Có kéo cô văn thư ra tra khảo thì cũng không thể biết tác giả là ai, ở đâu. Từ đó tôi luôn có cuốn sổ ghi chép của riêng mình và có hẳn một sơ-ri cho những truyện photo kiểu “Phải rời tàu”. Tôi luôn có ý trông nhưng không bao giờ được gặp lại nét chữ ấy, màu mực bic ấy trên khuôn giấy kẻ ngang ấy nữa. Theo kinh nghiệm, những người đến muộn thường xem văn chương như thiền, chỉ một lần lỡ ngồi với nơi nhốn nháo và không được tôn trọng, họ sẽ rút êm vào bóng tối và vẫn thiền đều, chắc chắn là như vậy.

Tôi cứ bâng khuâng với một bóng hình, một người ơn, một món nợ. Chân trời với tôi nặng trĩu hơn từ khi biết thi sĩ Trần Dần có hai câu thơ: “Tôi khóc chân trời không có người bay/ Và khóc những người bay không có chân trời”.                        

D.N
(268/06-11)


                                 




Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HOÀNG TRỌNG ĐỊNHPhòng giam chật chội, tối tăm...  Gần trần có một lỗ thông hơi. Bên ngoài lỗ thông hơi là bức tường tôn xám xỉn. Khe hở dài chừng 10 mét, rộng chừng 3 tấc, nằm song song và gần sát với mặt đường bên ngoài. Đứng trong phòng giam, từ lỗ thông hơi nhìn qua khe hở của bức tường, chỉ có thể thấy những bước chân người đi.

  • NGUYỄN TRƯỜNGThấy tôi ngồi chăm chú đọc thư, miệng cứ tủm tỉm cười, vợ tôi mới giả giọng, hỏi đùa:- Có việc chi thích thú mà cười một chắc rứa?- Có chuyện vui bất ngờ đấy em ạ! - Tôi vừa trả lời vừa kéo tay vợ ngồi xuống, rồi đọc lại một mạch toàn văn bốn trang thư của ba tôi từ Huế mới gửi vào.

  • VIỆT HÙNGGa H. một đêm mưa phùn ảm đạm.Khách chờ tàu nằm la liệt dọc các hành lang.Tôi bước vào phòng đợi, trong tâm trạng không vui mà cũng chẳng buồn. Tìm một chỗ ngồi bất kỳ…

  • TRẦN KIÊM ĐOÀN Ngôi nhà một thời là tổ ấm trên đồi bỗng trở thành rộng gấp đôi, gấp ba và vắng vẻ như một tòa lâu đài cổ từ khi Bé Út dọn ra khỏi nhà để lên miền Bắc học. Đứa con 18 tuổi trên đất Mỹ nầy rời nhà đi học xa thường có nghĩa là đang bước vào đời, ra khỏi vòng tay cha mẹ, thật khó lòng về lại. Những bước tiếp nối là học ra trường, kiếm việc làm, chọn nhiệm sở như cánh buồm đưa tuổi trẻ ra khơi. Bất cứ nơi nào có thể an cư lạc nghiệp trên 50 tiểu bang sẽ là nơi đất lành chim đậu. Tuổi thành niên tiêu biểu của văn hóa Âu Mỹ là tự lập, gắn liền với  vai trò chuyên môn và xã hội chứ không phải quanh quẩn với đời sống gia đình.

  • ĐỖ PHẤNĐêm rất khuya dưới chân núi H. Khó khăn lắm chúng tôi mới tìm được một con đò bằng tôn móp méo xác xơ. Chẳng hiểu ban ngày trông nó thế nào. Có lẽ đây là chiếc đò bị cấm lưu hành? Không thể có mặt ở bến vào ban ngày. Cũng là cấm làm phép. Dòng suối không có chỗ nào đủ sâu để có thể chết đuối.

  • ĐỖ KIM CUÔNGBây giờ bạn bè ít được gặp anh lang lang trên phố. Thảng hoặc dăm bữa nửa tháng, có khi hơn mới tóm được anh. Ấy là khi anh phải ra khỏi nhà đi nạp bài cho những tờ báo mà anh thường cộng tác, hoặc đi nhận nhuận bút một vài bài thơ lẻ in trên báo.

  • VŨ NAM TRỰC           Truyện ngắn

  • TRẦM NGUYÊN Ý ANHÔng Nhâm bước chầm chậm theo con đường tráng xi-măng ngoằn ngoèo trong con hẻm nhỏ. Căn nhà ông ở cuối xóm, một trệt, một lầu... mới tinh. Cánh cửa sắt đóng im ỉm. Ông ngồi bệt xuống nền xi-măng vì chân ông đã mỏi. Lẽ ra, khi mấy đứa con ông chưa bàn nhau cất lại căn nhà, ông đã có thể đẩy cánh cửa rào bằng tre và đàng hoàng bước vào nhà mình.

  • XUÂN CHUẨNĐể rồi tôi kể cho ông nghe về lai lịch cái quạt, để ông ông khỏi coi tôi là Thằng Bờm có cái quạt mo. Cái thời quạt điện quạt đá, máy lạnh mà cứ bo bo cái quạt kè, thỉnh thoảng lại đạp phành phạch như mẹ hàng cá thách lên giữa chợ. Cũng chẳng có gì li kỳ, hay mùi mẫn rơi lệ, chỉ là chuyện đời tầm phào.Hai ông trải chiếu ngồi giữa sân, nhâm nhi chén trà, ông Thân nói với đại tá Tiến về hưu như vậy khi đại tá ngỏ ý thích cái quạt kè của ông.

  • TRẦN THỊ TRƯỜNG  Bim chào đời vào lúc kém 19 phút. Trăng hạ tuần phun nhẹ màu đục của sữa vào bầu trời. Hôm sau trời lất phất mưa. Bố nói với bà ngoại trước khi đi làm: "Nếu không thấy con về thì bà giúp con cùng nhà con nuôi cháu". Câu nói ám ảnh làm trí tưởng tượng của bà ngoại nhiều lần thắt lại. Sau này nhiều khi bà ngoại sợ cả cái bóng của mình.

  • NAM TRUNG Ông Hãnh cứ đi tới đi lui trong phòng khách nhà ông, vừa đi vừa quạu cọ lẩm bẩm: thằng Hùng nó nói vậy là nó có ý coi thường mình, nó dám trứng khôn hơn vịt. Rồi mày sẽ biết tay ông. Ông sẽ cho mày còn lâu mới được vào Đảng, ông sẽ bác tất cả những đề xuất về mày...

  • HOÀNG THÁI SƠNKhi tôi lớn lên thì nội tôi đã mất từ lâu nhưng thỉnh thoảng dân làng vẫn nhắc đến người với niềm cảm mến về những chuyện không ít ly kỳ. Ông tôi rất khoẻ, người tròn vo, đen như sừng, tục danh Cu Trắt - phương ngữ vùng quê tôi nghĩa là nhỏ và rắn chắc. Ông ham mê võ thuật, thạo côn quyền, thuở trai thường đóng vai ông địa trong đám múa lân. Đám múa năm nào hễ thiếu ông là coi như nhạt trò, dân làng chẳng ai buồn xem. Người ta đồn ông tôi tài ba lỗi lạc, như có thể đi trên lửa, nhảy qua nóc nhà, còn những thứ chui vào hậu cung đình làng mà không cần dở ngói là xoàng... Kho chuyện về ông ngày càng dày do mồm miệng dân gian thêu dệt thêm, tuy nhiên trong đó nhiều chuyện là có thật.

  • PHAN XUÂN HẬUTôi trở về quê sau mười năm xa cách. Quê tôi nằm cuối con sông Vẹn, con sông này là nhánh của sông Dinh, bắt nguồn từ dãy núi Gám, chảy qua bến Dền. Nơi đây xưa kia là kinh đô của vua Dền. Vua Dền tụ tập lực lượng chống lại nhà Trần khi đó đang trấn áp nhà Lý. Vua Dền là hậu duệ của Lý Thái Tổ, ông không chịu sự chuyên quyền của vua tôi Trần Thủ Độ bèn lập căn cứ ở miền Tây Yên Thành, tức quê tôi, và Dền là kinh thành của ông, dân quen gọi ông là vua Dền.

  • NGUYỄN VĂN VINHTết Mậu Thân năm ấy tôi tròn mười sáu tuổi. Soi gương, tôi thấy y xì một con bé tóc lơ xơ hoe nắng, xấu tệ.

  • CHÂU DIÊNĐơn vị của tôi đi bộ từ một tỉnh miền Trung, lên qua Mường Phăng thì Điện Biên đã giải phóng. Sau một tháng đi bộ nhưng gần như chạy bộ, chúng tôi được phép nghỉ lại hai ngày ở một bản, hồi đó bản này nằm khá sâu trong rừng, nhưng nay thì nó đã ở bên một nhánh đường mới làm dẫn ra phố huyện Tuần Giáo để nối vào con đường số 6 chạy tuốt lên Điện Biên Phủ.

  • NGUYỄN TRƯỜNGLàng Hạ nằm phía hạ nguồn sông La Ngà. Đất chật. Người đông. Đói nghèo thành nếp. Hồi hai bên đánh nhau, nơi đây là vùng địch hậu. Giải phóng hơn chục năm mà làng Hạ đói nghèo vẫn hoàn nghèo đói. Không ít người bỏ làng đi xa chẳng thèm ngoái cổ nhìn lại. Vậy mà hơn mười năm lại đây, nhờ vực dậy cái nghề tơ tằm truyền thống vốn có từ xưa, làng Hạ đang trở thành một làng nghề giàu có nhất nhì trong vùng. Nhà cũ lỗi thời phá đi xây mới. Đường làng bùn lầy được thay bê-tông. Trường tiểu học tranh tre nứa lá hồi nào nay lên hai tầng. Điện lưới dọc ngang khắp làng đã đẩy năng suất ươm tơ kéo sợi lên cao chưa từng thấy. Chất lượng tơ tằm đạt chuẩn xuất khẩu. Hàng bán chạy hơn cả tôm tươi. Thu nhập người dân ngày một cao.

  • LÊ TRÂMNgồi với tôi và Kh là một đôi nam nữ còn khá trẻ. Chàng thanh niên, theo lời gã, vừa mới về từ Thái Lan sau khi trúng một hợp đồng béo bở. Gã là đại diện của một công ty xuất nhập khẩu nổi tiếng ở bên ấy.

  • NGÔ TỰ LẬPCó lẽ tôi đã ngủ rất lâu trước khi bị lay dậy một cách dữ dội. Tôi cố nằm thêm, mặc dù đó không phải là thói quen của một người lính cũ. Thường thì tôi bật dậy ngay. Trước khi tôi vào lính, cha tôi, một đại tá từng trải ba cuộc chiến tranh, chỉ dặn mỗi một câu: “Hãy chồm dậy ngay tiếng còi báo động đầu tiên!”. Lời dạy của ông tôi làm theo trong suốt thời gian tại ngũ và cả khi giải ngũ. Nhưng có những lúc ta không làm chủ được mình. Tôi thấy mình đau ê ẩm và phải một lúc khá lâu sau tôi mới chậm chạp mở mắt.

  • PHẠM THỊ CÚCTừ những ngày thơ bé còn cắp sách đến trường cho đến khi đã bước vào đời, con cái đã khôn lớn và trưởng thành, trong ký ức của tôi vẫn luôn lưu giữ những hình ảnh sinh động và kỳ diệu của hàng ngàn con cò trắng rợp cả cánh đồng bát ngát, những cánh rừng và vườn cây trĩu nặng vô vàn chim chóc, hình ảnh chim cò thân thiết đậu cả trên vai người, trên đầu người, quẩn dưới chân người... là chuyện của Vùng Đồng tháp Mười qua những trang viết hấp dẫn của các nhà văn Sơn Nam và Đoàn Giỏi.

  • MAI NINHTrong khoảng giữa buổi chiều thăm viếng cơ sở và dạ tiệc, tôi chạy về nhà thay quần áo. Dưới vòi nước ấm, tôi nao nao xúc động nhớ lại từng khuôn mặt bạn bè. Ngoài một hai người thỉnh thoảng gặp nhau nhờ ở lại nơi này sau khi tốt nghiệp, còn hầu hết thì sau một phần tư thế kỷ đã qua đi, bây giờ mới tái ngộ. Làm sao không ngẩn người trước những tên bạn ngày xưa mặt mũi căng hồng tí tửng nhố nhăng, giờ đây làn da gấp nếp, râu ria đạo mạo, ra dáng sếp lớn sếp nhỏ cả rồi. Và dấu chân chim của thời gian càng rõ rệt hơn nữa, nơi những cô đầm bạn gái của tôi.