Chuyến đò qua lũ

09:26 06/04/2010
NGUYÊN QUÂNGã vẫn lầm bầm, cái điệu nói nuốt âm trong cổ họng càng làm tôi điên tiết. "Mẹ kiếp! đồ cơ hội!". Tôi chợt khoái trá, dù tôi biết chắc chắn rằng cái khoái trá ấy chẳng lọt đến đôi tai vểnh ngược rất khó ưa của gã nhà đò.

Minh họa: Ngô Lan Hương

Không thể nhớ hết đây là lần thứ mấy tôi phải chịu cảnh qua sông lụy đò. Nhưng lần này là lần đầu tiên tôi mới bị một gã nhà dò chửi rủa, sau lúc tôi bực bội dí vào khuôn mặt khắc khổ, đen đủi của gã tờ giấy bạc đã bị vò nhàu trong cảm giác bị thất thế. Cũng như chưa lần nào tôi nhận ra con đò ngày thường rất vững vàng, có thể chở một lúc năm bảy chiếc xe máy lẫn người mà bây giờ lại mong manh đến vậy. Nó cứ nhồi xóc, bập bênh giữa lòng sông đang dần biến dạng, phình to ra, không còn giữ được màu xanh cố hữu của nó. Khách qua sông chuyến này với tôi chỉ có người đàn ông khá lớn tuổi, cũng khắc khổ đen đủi như gã nhà dò. Ông ta cứ chăm chú nhìn xuống con nước đục ngầu, xoáy hút kéo theo vô khối rong rêu, rồi thở hắt ra, lớn tiếng:

- Mới mưa có một đêm mà nước nguồn đổ mạnh thế ni, không khéo e trời làm lụt to đây!

Đang tức bực vì gã nhà đò vừa rồi tăng giá, tôi buột miệng:

- Ừ! thì lụt càng tốt chứ sao. Cơ hội để chặt đẹp mà!

Ông khách phớt nhìn tôi, trong ánh mắt lộ rõ vẻ khó chịu, điềm đạm:

- Chú phát biểu hơi quá đáng. Nước hỗn như ri mà có đò qua sông tốt lắm rồi. Có lấy thêm chút đỉnh công xá cũng phải thôi!

Tôi ngượng ngùng, chống chế:

- Đồng ý với bác là thế, nhưng vừa phải thôi! Giá qui định chỉ có ba ngàn đồng cả chuyến qua lẫn chuyến về mà chừ lấy đến hai chục ngàn cho một chuyến qua thì ép nhau quá mức!

Người đàn ông lớn tuổi bỗng mỉm cười nhạt nhẽo nhưng đầy miệt thị. Tôi cụt hứng. Thật ra chẳng phải tôi là người không hiểu được sự tăng giá hợp lý của gã nhà đò, khi phải tốn sức mất công gấp bội lần lúc bình thường để vượt qua dòng nước đang biến động bất thường này. Nhưng tôi không kìm hãm được nỗi bực tức, căm ghét. Gã nhà đò đang gò mình trên chiếc cần lái ở phía đuôi thuyền, nỗ lực chống chọi với những cuộn sóng đục ngầu, hung hãn. Đôi tay gã để trần cuộn từng cơ bắp chắc nịch, trên vòm ngực chỉ được che chắn lớp áo mỏng, ướt nhẹp. Tôi vẫn lầm bầm, liếc nhìn vị khách đồng hành. Ông ta lảng ra phía mũi đò. Tôi bật cười khan hoài nghi ngay chính nỗi bực tức của mình đang muốn trút hết lên vị khách đồng hành. Tôi quay về phía gã nhà đò... Bằng thái độ nhẫn chịu, thương khó bám chặt cần lái gã đang cố điều khiển chiếc đò nương theo dòng nước, cặp vào bờ an toàn.


Buổi rượu đêm, nói chuyện lông bông là thông lệ mỗi lần tôi ghé thăm Bình, thằng bạn thân hiếm hoi còn sót lại sau một thời gian dài phải chịu cảnh thất cơ, lỡ vận của tôi. Bình thuộc loại người tài. Nhưng cũng chính cái tài ấy mang lại cái tai. Bị cho nghỉ hưu non vì cậy tài nên cứng đầu cứng cổ, không chịu xu phụ, tùng quyền. Bình về quê vợ, may mắn kiếm được mấy mẫu đất đồi trong dự án trồng rừng. mười năm sau cứ phương sách lấy ngắn nuôi dài, lấy dài nuôi mộng làm giàu, Bình khấm khá dần. Giờ đây Bình có cả bò đàn, cả rừng tư hữu. Chỉ mỗi tội là phải đem 2 cái bằng cử nhân văn, toán có triện son đỏ chót, không biết dùng làm gì, nhốt chung với mấy tờ sắc phong cụ kỵ trong chiếc hộp gỗ ẩm ướt, bong lóc gần hết lớp sơn son thếp vàng từ thời quá khứ mù mờ nào đó.

Dốc sạch chén rượu vừa rót, tôi ngao ngán nhìn ra khoảng vườn trước nhà Bình. Trời bắt đầu trút những cơn mưa lớn. Mưa ở vùng bán sơn địa bao giờ cũng ào ạt, lồng lộn theo từng đợt gió xoáy. Cảm thấy lo âu, ân hận khi chọn đúng thời tiết bất thường này để vượt hàng chục cây số đường lên thăm bạn, tôi ca cẩm:

- Mẹ... mưa kiểu này đích thị là mưa lụt rồi. Vùng này có hay bị lũ quét không Bình?

Đang nhâm nhí, Bình cười phì bắn tung cả tợp rượu vào tôi.

- Ông hỏi hơi bị ngớ ngẩn đấy. Nước mà quét đến đây thì dân ở phố mấy ông đều trôi ra biển. Mà sao bữa nay ông khoái chửi thề vậy?

- Khoái... khoái cái con khỉ. Đang bực thằng cha nhà đò muốn chết đây.

Bình  cười khà khà:

- Lại màn qua sông lụy đò chứ gì... Bao nhiêu?

- Không đáng kể... nhưng sao cứ tức anh ách.

Bình vẫn cười... chêm thêm rượu vào chén.

- Thôi! Tức giận làm chi cho mệt xác. Mà nói cho ông biết nhé, ngó vậy chứ cha lái đò ấy cũng lắm cái hay đấy.

- Hay quái chi mà hay. - Tôi nốc liền liền hai chén rượu. - Cũng chỉ là loại cơ hội cò con...

Bình ngắt lời tôi, nói có vẻ bực mình.

- Đứa nào làm ăn chẳng thế, vẫn còn lương thiện hơn chán thằng! - Bình dằn mạnh chai rượu đã vơi quá nửa xuống mặt bàn. - Nói thật ông đừng giận, sự căm tức ấm ức trong lòng ông cũng là một thứ bệnh nghề nghiệp mà thôi... Ông ganh tị hơn là căm ghét.

Thấy Bình có vẻ bị bức xúc, tôi không muốn tranh cãi nhì nhằng, vớ lấy chai rượu, đấu dịu:

- Dẹp chuyện ấy sang một bên... uống tiếp đi!

... Chẳng lẽ cái căn nguyên sự bức bối trong tôi là một thứ bệnh nghề nghiệp? Cái nghề nửa đầu sai, nửa môi giới của tôi đã từng cứu tôi khỏi cảnh lận đận, bần hàn nhưng có lúc nó cũng đã bắt tôi chịu nhún mình, thậm chí bán cả mình cho người khác... Có lẽ Bình nói đúng, tôi ghen tị với gã lái đò. Không đơn giản chỉ vì sự thắng thế khi mượn dòng nước biến động để áp đặt giá cả cho tôi, mà còn vì gã được cái quyền lèo lái con đò của chính mình... Men rượu dần ném tôi vào trạng thái lơ mơ, nghe tiếng được tiếng mất chuyện "hay" của gã nhà dò mà Bình đang lè nhè tán dương, trong tiếng ầm ào của cơn mưa đang mỗi lúc mỗi nặng hạt.

Bị đánh thức bởi tiếng lay gọi thảng thốt, cùng lúc với những âm thanh hỗn độn, lạ lẫm, chưa kịp biết chuyện gì đang xảy ra, tôi đã được Bình xốc nách kéo bừa lên căn nhà trên.

Lũ... Lũ quét! Bình lắp bắp bên tai tôi... Tôi nhìn quanh. Qua ánh sáng tù mù, chòng chành từ cây tọa đăng tôi thấy toàn một màu đỏ quạch của nước lũ. Nước dâng nhanh không tưởng. Chỉ thoáng chốc thôi, căn nhà dưới nơi còn ngổn ngang chén bát của buổi nhậu đã lênh láng nước. Tôi bật người dậy, góp tay kê chuyển đồ đạc lên cao, cao hơn nữa... Chúng tôi cứ vận động như cái máy, không kịp ngừng lại để thở. Vậy mà thằng bạn tôi cứ hò hét, thúc dục bên tai. Nó quên béng mất tôi là khách, là chẳng mấy khi mó tay vào công việc nặng nhọc, xốc vác như bây giờ. Hết cái giường kê lên cái ghế, cái bàn kê lên cái giường, rồi ti vi, rồi máy hát. Cứ gấp gáp hoảng loạn theo từng ngấn nước... Cái lạnh, cái sợ cứ bò dần lên từng phần thân thể. Và mọi nỗ lực chống chọi với cơn lũ của tôi vụt tan biến theo ngọn đèn dầu vừa bị một ngọn gió dập tắt. Mất đi cái ánh sáng tù mù ấy, cả tôi lẫn Bình gần như có chung một ý tưởng. Buông xuôi...


Sống hơn nửa đời người, nếm trải chẳng biết cơ man nào đêm thức trắng nhưng chưa bao giờ tôi cảm thấy thời gian chờ trời sáng lại dài đến khủng khiếp bằng đêm nay. ngồi dựa sát vào nhau trên mấy tấm ván, kê chông chênh trên hệ thống băng dầm áp mái là cả gia đình Bình, hai vợ chồng, hai đứa con, cọng thêm tôi nữa là năm nhân mạng. Mọi người im lặng như thóc, cả hơi thở cũng chẳng dám thở mạnh. Cứ yên lặng phó thác mọi sự vào số mệnh. Cho đến khi cái ánh sáng yếu ớt của ban ngày dần xuyên thủng được trần mây u ám. Tôi gào, Bình gào - cả năm con người đồng thanh kêu cứu cật lực khi chiếc đò còn lẩn khuất đâu đó sau màn mưa mù quánh, chỉ vọng tới chỗ chúng tôi tiếng máy dầu quen thuộc. Cho đến lúc khản giọng; khuôn mặt phờ phạc của gã nhà đò mới thấy xuất hiện bên cái lỗ thủng ở mái ngói vừa được tháo dỡ.

Tôi không hề hối tiếc vì lời hứa "bao nhiêu cũng được" đã bật ra từ nỗi mừng rỡ tột độ. Chắc chắn gã sẽ chẳng dại chi bỏ qua dịp may hiếm có ấy. Qua về trên con đò nhiều lần, tôi thường chứng kiến không ít lần tính ky bo, chắc bóp từng đồng bạc lẻ với khách của gã, bất chấp mọi lời xói xỉa, nguyền rủa của họ. Khi gã lùa tôi cùng gia đình Bình lên một ngọn đồi khá cao, tôi vẫn nhắc lại lời hứa của mình, không chút tính toán, so kè.

- À! chuyện tiền bạc mai mốt nước rút rồi hẵng tính!

Gã vừa nói vừa cười, nụ cười không mấy thiện ý...


Chỏm đồi gã nhà đò đưa tôi đến khá an toàn. Vượt cao trên mặt nước, có lẽ lúc bình thường chẳng mấy ai cất công leo lên đây làm gì. Hàng chục người đủ hạng nam, nữ, già trẻ chen chúc dưới những tấm bạt dừa, những tấm áo đi mưa căng rộng hết cỡ. Bình nhanh chóng nhét vợ con vào mấy chục bàn tay đang chìa ra vẫy gọi rối rít. Chỉ còn tôi, vì bỡ ngỡ trước đám người không quen mặt biết tên, nên cứ đứng như bị trời trồng giữa cơn mưa. Chợt một bàn tay ram ráp, một giọng nói quen quen lọt vào đôi tai rũ ướt, tím lạnh của tôi. "Này chú! Vào đây cái đã, kẻo bị cảm lạnh trong hoàn cảnh ni thì mệt lắm". Chưa kịp nhận ra, tôi đã được kéo lọt thỏm vô giữa những tấm lưng, bờ vai đang cố rịt sát vào nhau hơn. Tôi vội ngồi thụp xuống bên họ, chò hỏ, bó gối trên nền đất đá lôm nhôm, ẩm ướt. Bây giờ tôi mới kịp nhận ra người vừa kéo gọi mình là vị khách cùng qua đò chiều hôm qua. Ông ta cũng ướt sũng toàn thân, giống như tất cả mọi người ở đây. "Cám ơn" tôi lí nhí. Người đàn ông lớn tuổi cười thân thiện quàng tay qua vai tôi. Cánh tay rắn chắc cuộn những vòng cơ bắp tạo cho tôi ấm áp. Nỗi kinh hoàng của một đêm vật lộn với nước lũ cũng nhanh chóng tan đi. Lòng tôi bỗng nao nao một cảm giác bình yên đến kỳ lạ.

Mọi khái niệm về thời gian hình như không tồn giữ chút nào trong trạng thái mơ hồ nửa thức, nửa ngủ của tôi. Đó là mỗi lần gã nhà đò với chiếc đò quay về, thả thêm một vài người, một vài thứ cần thiết như vải bạt, áo đi mưa hay vài khúc tre, nứa lên chỏm đồi. Bây giờ, cái cồn cào quặn thắt của cơn đói lại lan tỏa khắp cơ thể tôi. Tôi thấm dần điều mà trước đây chưa hề biết: đói đến mờ mắt. Với tôi lúc này mọi thứ, mọi vật, mọi ý tưởng đều nhập nhoạng, nhập nhoạng...

Từ lâu lắm rồi tôi quên lãng cái thói quen ao ước tuổi thơ "Chừ giá có Bụt cho mình... thế này... thế kia". Vậy nhưng khi tôi thầm ước, thì Bụt lại xuất hiện. Nửa gói mì ăn liền mà người đàn ông vừa dúi làm tôi tỉnh hẳn. "Ăn tạm cái này cho đỡ đói đã chú" "Cám ơn" - tôi lùng bùng trong cổ họng cái từ khách sáo đã thành tật. "Của chú Cậy cho đấy". - Ông ta vừa ngốn ngấu nửa gói mì còn lại vừa chỉ tay về phía gã nhà đò đang phân phát từng gói mì cho đám người cũng đang đói lả như tôi. Tôi chậm rãi nhấm nháp từng chút mùi vị khô khan của mì sợi. Chỉ nửa gói mì ăn liền thì dù ăn theo kiểu gì cũng chẳng thể thỏa mãn cơn đói, chiêu thêm vài ngụm nước ứ đọng trên tấm áo mưa cũng vẫn còn nghe cồn cào. Cái đói chợt dưng xua đi cái sĩ. "Này ông Cậy ơi!" - Tôi gọi lớn. Nghe kêu đúng tên, Cậy quay nhìn rồi len lỏi qua mấy lớp rào người tiến về phía tôi.

- Ủa! Là xếp à! Kêu tui có chuyện chi vậy, xếp?

Chẳng còn hơi sức đâu chấp cái "đại từ" vốn ghét cay ghét đắng ấy, tôi liền nói tuột ý muốn mua lại vài gói mì gã đang cầm trên tay. Gã cười.

- Đắt lắm, xếp mua nổi không?

- Đắt là bao nhiêu? Mà bao nhiêu cũng được!

Giận lắm, nhưng tôi không dám lớn tiếng. Có lẽ gã nhận thấy sự hằn học bị nén nhịn trong giọng nói gãy gọn của tôi nên gã giả lả.

- Đùa anh một chút cho vui chứ có đâu nhiều mà bán với mua. May lắm thì đủ cho mỗi người nửa gói, tạm chống đói đã!

Như được cảnh tỉnh, tôi ngượng ngập nhìn quanh. Người đàn ông tốt bụng vỗ... vỗ vai tôi.  Không hiểu hành động này của ông ta là trấn an hay khỏa lấp giúp tôi sự sượng sùng. Cậy hình như cũng cảm thấy ái ngại nên an ủi:

- Anh yên tâm, nước chững lại rồi, là rút nhanh lắm!

Rồi quay đi, tiếp tục công việc chia chác "tạm chống đói". Tôi từ từ đứng dậy duỗi tay chân cho đỡ tê mỏi. Mưa tuy đã ngớt, nhưng nước lũ vẫn mênh mông.


Tôi gặp lại gã sau gần tròn hai tuần lễ. Tính từ hôm gã chở tôi về. Gã chừng như không muốn nói gì nhiều về bản thân về công việc từng làm trong cơn lũ với anh chàng phóng viên đang thực hiện đoạn băng phóng sự trên vùng đất bị tàn phá nặng nề nhất trong "cơn đại hồng thủy". Cụm từ của anh chàng phóng viên vừa dùng. Gã không muốn nói. Nhưng đến bây giờ sau ba ngày ba đêm đói khát ngồi bó gối chờ nước rút trên chỏm đồi, được ngồi thoải mái trên ghế bọc nệm, được thưởng thức hương vị ấm cúng từ bữa cơm gia đình, thì tôi đã biết rất nhiều điều về người đưa đò có cái tên Cây chất phác, hồn nhiên ấy.

Cậy chẳng phải dân cư trú ở xóm Núi như những người được gã sục sạo mọi ngõ ngách cứu bằng hết, đưa lên tránh nạn lũ ở ngọn đồi hôm ấy. Mà Cậy là dân xóm Bãi ở phía bên kia, nơi cũng bị dòng nước lũ tràn về, sau khi đã nhanh chóng chuyển vợ con, người thân lên được nơi cao ráo an toàn, Cậy sực nhớ đến dân bên xóm Núi, anh lập tức liều lĩnh băng qua sông giữa đêm tối tăm mưa gió.

- Trông mực nước, tui biết ngay bên ni cũng bị ngập rất sâu, mà dân xóm Núi làm chi có đò, đều là khách thường ngày của tui. Không qua cứu, lỡ họ chết hết thì tui cũng phải bỏ nghề luôn chứ đưa đò với ai nữa đây?..


Chơi thân nhau nhiều năm, biết khá rõ cá tính kiên cường, rắn rỏi ở bạn, chưa khi nào tôi bắt gặp nét rã rượi, thất thần lại hiện rõ trên mặt Bình như lúc này. Bình đứng chết lặng, nhìn tìm cái sản nghiệp bao nhiêu năm trời chịu thương, chịu khó gầy dựng chừ nằm tận đâu dưới lớp bùn nhão nhoẹt, chẳng để ý gì đến sự huyên náo của những người hàng xóm vừa thoát cảnh hiểm nguy, giờ đang cố chen lấn, giành giật nhau từng ổ mì, gói bánh được ném xuống từ chiếc máy bay trực thăng cứu hộ.

Tôi bước đến gần cố an ủi bạn:

- Người còn là may mắn lắm rồi.

Bình nhếch mép:

- Ừ, ông cứ yên tâm, mình chẳng sao đâu... Mà nghĩ cũng lạ cho cái lạc quan của con người, tai vạ đến mấy đi nữa cũng ráng tìm cho được một chữ may. Bình chuyển tầm nhìn về phía những người hàng xóm lắc lắc đầu, tiếp:

- Mà phải vậy thôi, ai cũng vì gia đình, vì cuộc sống cả. Ông cũng liệu về nhà xem thử thế nào.

Dù con nước còn lớn, chưa hết sự đe dọa, Cậy vẫn đưa tôi qua sông.  Gã hình như vui vẻ hơn mọi bữa. Tôi chưa kịp hỏi, gã đã khoe là gặp may giành được hai thùng mì và mấy bánh lương khô từ trực thăng thả xuống. Trông vẻ mặt hớn hở của gã nhà đò, tôi lại nhớ đến người đàn ông tốt bụng, nhớ cả lời nhận định của Bình. Có một điều tôi không ngờ tới là Cậy thẳng thừng từ chối số tiền tôi vét sạch trong chiếc ví da còn ướt nhẹp để trả công cho gã đúng như lời hứa.

Tuy số tiền không lớn, nhưng chẳng phải nhỏ đối với một người lam lũ, vất vả nuôi sống gia đình năm miệng ăn bằng cái nghề đưa đò ngang như Cậy. Vậy mà gã trả lại bằng hết số tiền, chỉ giữ lại đúng tờ hai mươi nghìn đồng.

- Tui chỉ lấy đúng giá chuyến này. Còn chở đi tránh lụt là chở giúp!

Cậy vừa nói vừa xua tay lia lịa, mặc cho tôi nằn nì mong gã nhận.

Nhâm nhi cốc bia, tôi nhìn Cậy. Cái khuôn mặt chân chất nom có nét khờ khạo ngây ngô đến tội nghiệp. Hai bàn tay Cậy cứ mãi vò đầu tóc rối bù, nhem nhuốc dầu mỡ. Phía xa xa sau lưng là một phần ngôi nhà xiêu vẹo vẫn cố bám víu vào dải bờ cùng lở lói, tang thương... Tiếng chuông điện thoại di động chợt réo vang. Tôi nhổm người dậy khỏi cái ghế bọc nệm, lôi chiếc máy ra từ trong túi quần... Chắc chắn Cậy không thể nhìn thấy tia mắt ngưỡng mộ của tôi giành riêng cho anh lúc này...

- Anh nghĩ gì khi cứu... giọng anh chàng phóng viên trẻ măng lại hỏi.

Cậy lại cười, cười hiền như Bụt.

N.Q
(135/05-00)





 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN ĐẠI DUẪN   

    Đã cuối tháng Chạp mà nắng còn như đổ lửa. Nắng mùa khô ở Lào thật khó chịu, lúc thì nóng nực, lúc thì lất phất mấy ngọn gió khô khốc.

  • 1.
    Ở xóm Bà Tàu, mỗi lần nhắc tới cái ác của Quản Ló thì ai nấy thảy đều tội nghiệp và cảm thông bà Tám Hội Đồng, má đẻ Quản Ló. Vì, “Sanh con ai nỡ sanh lòng/ Nuôi con ai chẳng vun trồng cho con” (Ca dao). Và, như lời người xưa: “Cha mẹ sanh con, trời sanh tánh”.

  • TRẦN THÚC HÀ  

    Ngọn núi Quảng Đại Sơn thuộc huyện Bồn Tân, tỉnh Hoàng Hải bên bờ biển phía tây nước Cao Ly. Núi không cao lắm, cách thành trì Ủng Tân một quãng ngắn. Trên đỉnh núi có tảng đá bằng mà rộng.

  • THU LOAN   

    Ông đã sống ở thị xã Cao nguyên những năm 80. Nhấp nhô những con dốc cao cao. Đường lổn nhổn sỏi đá. Đạp xe như cóc nhảy vì ổ gà.

  • NGUYỄN NGỌC LỢI   

    Nửa chiều đó Huế mưa. Tiết cuối thu nắng nhẹ, đẹp suốt dọc đường, vậy mà đến Huế, xe vừa dừng bánh thì mưa đổ xuống. Mưa quất rào rào, gió thốc hơi nước lọt qua khe cửa buôn buốt lạnh. Lái phụ từ phía đầu xe gọi khách xuống.

  • TRẦN BĂNG KHUÊ   

    1.
    “Tôi đảm bảo câu chuyện mà tôi sắp kể đây hoàn toàn bắt đầu bởi một giấc mơ. Một giấc mơ kỳ quặc, chúng là những bức tranh lạ lẫm không đầu không cuối, không hề có bất kỳ sự kết nối nào”.

  • LÊ ANH HOÀI    

    Hàm có mặt trong một đêm thơ của một câu lạc bộ mang tên “Vĩnh Cửu”. Bà cô của Dung làm chủ tịch câu lạc bộ này.

  • PHẠM NGỌC TÚY

    1.
    Tám mươi bảy tuổi, bà rên rỉ, chép miệng suốt ngày. Giọng nói còn tốt, đầu óc chưa lú lẫn, nếu không có cô cháu gái một hôm ghé xuống nhà thăm phát hiện ra bà đau nằm một chỗ, thỉnh thoảng hay lên về bới xách không biết sẽ còn chuyện gì xảy ra nữa?

  • DIỆU PHÚC

    Năm tôi lên bốn, chị đã lên mười. Người ta nói chị mãi là đứa trẻ bốn tuổi. Tôi không hiểu vì sao lại thế.

  • KIỀU BÍCH HẬU  

    1. Ngày cuối tuần, Andras bồn chồn đi đi lại lại trong căn hộ của mình trên tầng bốn toàn nhà cổ tại phố Bartok Bela.

  • MCAMMOND NGUYEN THI TU

    Cuộc sống là như bước chân lên một con thuyền mà nó chuẩn bị ra khơi và chìm
                                        (Shunryu Suzuki)

  • LTS: Bạn đọc đã từng quen biết Phạm Thị Hoài qua tập truyện "Mê lộ" và tiểu thuyết "Thiên sứ" (tác phẩm đã được dịch sang tiếng Pháp với tựa đề “La messagère de Cristal", do Phan Huy Đường dịch, Nxb Phụ nữ ở Paris phát hành. Nxb Turino (Ý) cũng dự định cho ra mắt tác phẩm này bằng tiếng Ý vào tháng 5 sắp tới, đồng thời Nxb Rowohl (Đức) cũng đã ký hợp đồng in 12 nghìn bản tiếng Đức.

  • TRẦN TRUNG CHÍNH

    Tám mươi lăm phần trăm dân thành phố chúng ta, chưa cần hỏi ý kiến về tình trạng vệ sinh thành phố, đều kêu rằng: "Thành phố rất bẩn".

  • TRẦN BẢO ĐỊNH

    1.
    Thấy sóng lắp liếm bờ chờ con  nước nhảy, lão Bảy nói:
    - Sớm mai, con ở nhà!
    - Ở nhà chi, tía?

     

  • TRU SA  
    Viết riêng cho một người  

    Đèn tắt là hết, chỉ còn đôi mắt tỉnh bơ cùng tiếng thở nhẹ. Đường ray vẫn đầy đá dăm, thứ vật lót giúp bánh tàu không đổ nhào.

  • NGUYỄN THẾ HÙNG    

    Anh Thuyên nhà bên xóm Bến sang xóm tôi cưới chị Linh. Chị Linh xinh, da trắng, tóc dài nên nhiều anh trong xóm tôi mê, vậy mà chị lại đi lấy người xóm Bến.

  • PHAN TRUNG HIẾU

    Cha con tôi trú trong một căn nhà tuyềnh toàng cạnh đường cái quan. Mái nhà tranh cũ kỹ, đen xỉn một gam màu lạnh giữa nhà nhà mái tôn, mái ngói, gạch ốp sáng choang. Cũng chả lấy thế làm buồn.

  • HẠ NGUYÊN

    Đêm thứ mười tám tôi mới lọt được vào căn nhà của em. Bấy giờ đang quá khuya và sự vắng ngắt như nhìn xói vào làm tôi kinh sợ. 

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO   

    21 giờ đêm, tôi rời khởi phòng làm việc sau một ngày. Từ tầng sáu của tòa nhà nhìn xuống, khu phố Loan bắt đầu lên đèn.

  • TRẦN THÚC HÀ     
           Tặng H.V.T   

    Cha ông, là một nhà tạc tượng có tiếng ở chốn Thăng Long. Năm 1397 dưới triều Trần Thiếu đế, Hồ Quý Ly cho xây thành Tây Đô, cha ông được mời đến khắc chạm nội thất trong điện tiền.