HOÀNG THỊ THU THỦY
Ảnh: internet
Chúng ta không cần phải đẹp lắm
Để yêu nhau chúng ta không cần phải đẹp lắm
Phải giỏi giang hơn mọi người, phải biết nấu ăn ngon
Không phải lúc nào em cũng cần phấn son
Để yêu nhau chúng ta còn nhiều việc phải làm
Khi nửa đêm trời sao tối dần, sương mù
Rơi lặng lẽ, bầy ngỗng trời bay qua
Cất tiếng kêu, tiếng chúng không hay lắm
Buồn rầu, cô quạnh, khàn khàn, xa vắng
Không cần phải ngọt ngào, cũng làm anh thức giấc, ngồi lên
Nhìn đăm đăm vào tường, ra mở cửa sổ, nhìn xuống vườn
Bóng của chúng bay lướt qua, một con bay sau cùng
Lạc trong sương mờ tối, như ngày ấy
Anh bỏ rơi em
Để yêu nhau em không cần phải xinh đẹp lắm
Không cần phải bay đến chốn vô cùng
Không cần quá thông minh và đi chân đất
Không cần phải sexy và bận đồ nóng nhức mắt
Không cần phải hát hay, để yêu một người đàn ông
Em chỉ cần bay qua mái nhà lúc nửa đêm
Trong giấc mơ của anh
Bay chậm lại, bay sau cùng
Như một cánh chim lạc bầy, như ngày ấy
Khi em bỏ rơi anh
Nguyễn Đức Tùng
Thật hữu duyên, khi tôi đọc được bài thơ “Chúng ta không cần phải đẹp lắm” trên trang “Thơ tình thứ bảy” của nhà thơ Nguyễn Đức Tùng; bài thơ có thi tứ độc đáo, góc nhìn riêng, tôi có cảm nhận thơ anh rất mới. Bài thơ như là sự cô đặc và nén chặt của một cuốn tiểu thuyết có nhiều phân mảnh, nhiều trường đoạn, mà trong đó cái tôi trữ tình như tự soi chiếu và cảm nhận sự mất mát, tiếc nuối khi mất đi tình yêu.
“Để yêu nhau chúng ta không cần phải đẹp lắm” - tứ của bài thơ thật bất ngờ khiến người đọc như giật mình, đốn ngộ, và bài thơ như chạm vào cái tôi thẳm sâu trong trái tim đang yêu và khao khát một tình yêu. Kết từ “để” đặt ở đầu câu, nói rõ mục đích của sự việc: “để” “yêu nhau” thì “không cần phải đẹp lắm” - nghĩa là có đẹp, phải đẹp, nhưng “không cần phải đẹp lắm” - phụ từ “lắm” là mức độ được đánh giá là cao, nhưng đã có từ phủ định: “không cần phải”. Lập tứ bằng một câu thơ có sự sắp xếp chặt chẽ của ngôn từ như thế là đã gây ấn tượng đến tâm thức của người đọc, bởi lối tư duy vốn đã quen thuộc trong chúng ta là đã yêu thì phải “Dịu dàng quá, dịu dàng không chịu nổi” (Olga Berggoltz), hoặc phải “Dữ dội và dịu êm” (Xuân Quỳnh)… Nguyễn Đức Tùng đã lập tứ bằng cái nhìn trung tính, trầm tĩnh, chứa đựng chiều sâu của triết lý “Để yêu nhau chúng ta không cần phải đẹp lắm”. Cái tôi của thi nhân phân thân trong cái nhìn sâu vào ký ức, hòa quyện giữa vô thức, tiềm thức và ý thức của cả anh và em.
“Khi nửa đêm trời sao tối dần, sương mù/ Rơi lặng lẽ, bầy ngỗng trời bay qua/ Cất tiếng kêu, tiếng chúng không hay lắm/ Buồn rầu, cô quạnh, khàn khàn, xa vắng…”. Thời gian để anh lắng nghe anh là lúc “nửa đêm”, không gian vào lúc này thanh tĩnh đến mức anh nghe tiếng kêu của “bầy ngỗng trời” - nghệ thuật dùng động tả tĩnh khá quen thuộc trong thơ trung đại “Một tiếng trên không, ngỗng nước nào?” - (Thu vịnh - Nguyễn Khuyến); mà đặc biệt là tiếng kêu của chúng không hay, khàn khàn - không ngọt ngào, không lãng mạn… thế mà “cũng làm anh thức giấc, ngồi lên”, hư từ “cũng” là điểm nhấn của câu thơ, như ngầm chỉ về sự giống nhau của hiện tượng, trạng thái. Nghe tiếng kêu của đàn ngỗng trời bay qua mà anh hình dung “một con bay sau cùng” cũng như nỗi xót xa, nẫu ruột, đớn đau trong anh, bởi ngày ấy “Anh bỏ rơi em”. Hai dòng thơ cuối ở khổ thơ thứ hai như lạc nhịp, phá bỏ lối diễn đạt thông thường: “Lạc trong sương mờ tối, như ngày ấy// Anh bỏ rơi em” - 5/ 3// 4; trạng ngữ chỉ thời gian “như ngày ấy” đặt vào cuối dòng thơ thứ nhất, ngắt giữa 2 dòng thơ tạo thành sự đứt gãy nhịp điệu của cả câu thơ, nhấn mạnh sự việc “Anh bỏ rơi em”. Kết từ “như” trong cụm từ “như ngày ấy” đã biểu thị sự so sánh giữa tiếng kêu của bầy ngỗng trời, cùng cánh chim của con bị lẻ đàn đuối sức, với chuyện “anh bỏ rơi em” - cái nhìn của thi nhân đã soi chiếu đến tận cùng của nỗi đau vì sự mất mát, tiếc nuối; đó cũng là lối sử dụng biểu tượng nhằm tri giác cái bất khả tri giác. Thi ảnh dịch chuyển cùng cái nhìn của cái tôi thật nhiều luyến tiếc, bởi ngày ấy “anh bỏ rơi em”. Hình ảnh “một con bay sau cùng” cùng cánh chim lạc lối ấy như soi tỏ trong tâm thức anh một nỗi đau không biết tự bao giờ, nỗi đau không chỉ xuất hiện một lần, mà nhiều lần, bởi vì khi đàn ngỗng trời bay qua… anh đã thức giấc, thời gian câu thơ đã viết rõ là “nửa đêm”, và còn ẩn ngầm thêm cả thời gian mùa - bầy ngỗng trời thường bay đi khi chuyển mùa từ thu sang đông… Tự thú nhận “anh bỏ rơi em”, và từ đó biết bao lần lúc nửa đêm anh nghe tiếng ngỗng trời mà bật dậy? Sự luyến tiếc lớn đến chừng nào, bởi vì lúc “anh bỏ rơi em” là lúc anh chưa ngộ ra rằng: “Để yêu nhau chúng ta không cần phải đẹp lắm”.
“Để yêu nhau em không cần phải xinh đẹp lắm” - cái nhìn về em trìu mến, bao dung làm sao. Không cần em là người đẹp, người tài, người nổi bật, mà chỉ cần tâm hồn em quấn quít lấy anh, mãi ở bên anh. Nên “Em chỉ cần bay qua mái nhà lúc nửa đêm/ Trong giấc mơ của anh” - giấc mơ vi diệu về một tình yêu thật giản dị, ngay cả “Khi em bỏ rơi anh”. Thời gian vẫn là nửa đêm, không gian không xa xôi cùng cánh ngỗng trời mà gần gũi đến mức ngỡ như chạm vào được “Em chỉ cần bay qua mái nhà” - chỉ cần có em, ngôi nhà sẽ bình yên (trong nhà có em là bình yên)…
Hai khổ thơ đăng đối nhau về ý tứ: “Anh bỏ rơi em”… “Khi em bỏ rơi anh” - bỏ rơi - bỏ lại phía sau rất xa, coi như không còn quan hệ. Cả hai cùng bỏ rơi nhau - ẩn ngầm một chút kiêu hãnh của cái tôi tình yêu khi bị phụ bạc; riêng ý thơ viết về em thì có thêm hư từ “khi” - bỗng dưng, không rõ lí do - “em bỏ rơi anh” - diễn đạt nỗi đau mơ hồ từ anh, bởi vẫn không rõ lý do vì sao “em bỏ rơi anh”. Hình ảnh sử dụng trong mỗi khổ thơ đều có dụng ý, anh thức giấc lúc nửa đêm bởi có tiếng kêu đàn ngỗng trời bay qua; và em trở về trong giấc mơ anh cũng vào lúc nửa đêm - đó là khoảng không gian, thời gian yên tĩnh, lắng sâu cho một nỗi đau, một sự day dứt, tiếc nuối… Không gian và thời gian trong bài thơ không còn là những đại lượng vật lý bên ngoài, mà là những không gian, thời gian đã thấm vào tâm thức, cảm xúc tác giả; biểu hiện cái nhìn của tác giả về sự mất mát trong tình yêu thật da diết và đớn đau.
Điệp ngữ “như ngày ấy” trong hai câu thơ ở hai khổ thơ: “Lạc trong sương mờ tối, như ngày ấy”/ “Như một cánh chim lạc bầy, như ngày ấy” đã khắc ghi trong tim khoảng thời gian cả hai đã bỏ rơi nhau, vì khi bỏ rơi nhau là khi họ chưa hiểu rằng: “Để yêu nhau chúng ta không cần phải đẹp lắm” mà “Để yêu nhau chúng ta còn nhiều việc phải làm”. Cái hay của thi tứ được biểu đạt bằng cái nhìn đằm sâu với lối diễn đạt độc đáo, mới lạ, riêng biệt của nhà thơ Nguyễn Đức Tùng đã thực sự gây ấn tượng trong tâm hồn chúng ta; bởi để ngộ ra một điều tưởng chừng rất giản dị là “Để yêu nhau chúng ta không cần phải đẹp lắm” thì con người cũng đã phải trải qua những nỗi buồn không thể diễn tả bởi những mất mát, day dứt khôn nguôi.
Huế ngày 19/7/2020
H.T.T.T
(SHSDB38/09-2020)
PHẠM PHÚ PHONGTrước khi có Hoa nắng hoa mưa (NXB Thanh Niên, 2001), Hà Huy Hoàng đã có tập Một nắng hai sương (NXB Văn Nghệ TP Hồ Chí minh, 1998) và hai tập in chung là Một khúc sông Trà (NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh) và Buồn qua bóng đuổi (NXB Văn hoá Dân tộc, 2000). Đã có thơ đăng và giới thiệu trên các báo Văn nghệ Trẻ, Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, Lao động, Người lao động, các tập san, tạp chí Thời văn, Tiểu thuyết thứ bảy, Cẩm thành hoặc đăng trong các tuyển thơ như Hạ trong thi ca (1994), Lục bát tình (1997), Thời áo trắng (1997), Ơn thầy (1997), Lục bát xuân ca (1999)...
Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937. Quê ở Triệu Long, Triệu Hải, Quảng Trị. Năm 1960, tốt nghiệp khóa I, ban Việt Hán, Trường đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, nhận bằng cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế. Năm 1960 - 1966, dạy trường Quốc Học Huế. Từng tham gia phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mỹ - ngụy đòi độc lập thống nhất Tổ quốc. Năm 1966 - 1975, nhà văn thoát li lên chiến khu, hoạt động ở chiến trường Trị Thiên. Sau khi nước nhà thống nhất, từng là Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt.
ANH DŨNGLTS: Kết hợp tin học với Hán Nôm là việc làm khó, càng khó hơn đối với Phan Anh Dũng - một người bị khuyết tật khiếm thính do tai nạn từ thuở còn bé thơ. Bằng nghị lực và trí tuệ, anh đã theo học, tốt nghiệp cử nhân vật lý lý thuyết trường Đại học Khoa học Huế và thành công trong việc nghiên cứu xây dựng hoàn chỉnh bộ Phần mềm Hán Nôm độc lập, được giải thưởng trong cuộc thi trí tuệ Việt Nam năm 2001.Sông Hương xin giới thiệu anh với tư cách là một công tác viên mới.
SƠN TÙNGLTS: Trong quá trình sưu tầm, tuyển chọn bài cho tập thơ Dạ thưa Xứ Huế - một công trình thơ Huế thế kỷ XX, chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các nhà thơ lớn đương thời khắp cả nước đều tới Huế và đều có cảm tác thơ. Điều này, khiến chúng tôi liên tưởng đến Bác Hồ. Bác không những là Anh hùng giải phóng dân tộc, là danh nhân văn hoá thế giới mà còn là một nhà thơ lớn. Các nhà thơ lớn thường bộc lộ năng khiếu của mình rất sớm, thậm chí từ khi còn thơ ấu. Vậy, từ thời niên thiếu (Thời niên thiếu của Bác Hồ phần lớn là ở Huế) Bác Hồ có làm thơ không?Những thắc mắc của chúng tôi được nhà văn Sơn Tùng - Một chuyên gia về Bác Hồ - khẳng định là có và ông đã kể lại việc đó bằng “ngôn ngữ sự kiện” với những nhân chứng, vật chứng lịch sử đầy sức thuyết phục.
NGUYỄN KHẮC PHÊAnh Hoài Nguyên, người bạn chiến đấu của nhà văn Thái Vũ (tức Bùi Quang Đoài) từ thời kháng chiến chống Pháp, vui vẻ gọi điện thoại cho tôi: “Thái Vũ vừa in xong TUYỂN TẬP đó!...” Nhà văn Thái Vũ từng được bạn đọc biết đến với những bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ như “Cờ nghĩa Ba Đình” (2 tập - 1100 trang), bộ ba “Biến động - Giặc Chày Vôi”, “Thất thủ kinh đô Huế 1885”, “Những ngày Cần Vương” (1200 trang), “Thành Thái, người điên đầu thế kỷ” (350 trang), “Trần Hưng Đạo - Thế trận những dòng sông” (300 trang), “Tình sử Mỵ Châu” (300 trang)... Toàn những sách dày cộp, không biết ông làm “tuyển tập” bằng cách nào?
MINH QUANG Trời tròn lưng bánh tét Đất vuông lòng bánh chưng Dân nghèo thương ngày Tết Gói đất trời rưng rưng...
NGUYỄN THỊ THÁITôi không đi trong mưa gió để mưu sinh, để mà kể chuyện. Ngày ngày tôi ngồi bên chiếc máy may, may bao chiếc áo cho người. Tôi chưa hề may, mà cũng không biết cách may một chiếc Yêng như thế nào.
Nhà thơ Hải Bằng tên thật là Vĩnh Tôn, sinh ngày 3 tháng 2 năm 1930, quê ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông mất ngày 7 tháng 7 năm 1998.
NGUYỄN VĂN HOACuốn sách: "Nhớ Phùng Quán" của Nhà xuất bản Trẻ, do Ngô Minh sưu tầm, tuyển chọn và biên soạn với nhiều tác giả phát hành vào quý IV năm 2003. Cuốn sách có 526 trang khổ 13x19cm. Bìa cứng, in 1000 cuốn. Rất nhiều ảnh đẹp của Nguyễn Đình Toán - nhà nhiếp ảnh chân dung nổi tiếng của Việt nam. Đơn vị liên doanh là Công ty Văn hoá Phương Nam.
ĐÀ LINHĐể có trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, trước đó quân đội Nhân dân Việt Nam đã có những trận đánh để đời mở ra những khả năng to lớn về thế và lực cho chúng ta. Trong đó Trận chiến trên đường (thuộc địa) số 4 - biên giới Cao Bắc Lạng 1950 là một trận chiến như vậy.
HOÀNG VĂN HÂNLướt qua 30 bài thơ của Ngô Đức Tiến trong “Giọng Nghệ”, hãy dừng lại ở những bài đề tài tình bạn. Với đặc điểm nhất quán, bạn của anh luôn gắn liền với những hoài niệm, với những địa chỉ cụ thể, về một khoảng thời gian xác định. Người bạn ấy hiện lên khi anh “nghĩ về trường” “Thăm trường cũ”, hoặc là lúc nhớ quá phải “Gửi bạn Trường Dùng” “ Nhớ bạn Thanh Hoá”. Bạn của anh gắn với tên sông, tên núi: sông Bùng, sông Rộ, Lạt, Truông Dong, Đồng Tháp.
FAN ANHTrên thế gian này tồn tại biết bao nhiêu báu vật, hoặc những huyền thoại về báu vật, thì cũng gần như hiện hữu bấy nhiêu nỗi đau và bi kịch của con người vốn dành cả cuộc đời để kiếm tìm, bảo vệ, chiếm đoạt hay đơn giản hơn, đặt niềm tin vào những báu vật ấy. Nhẫn thạch (Syngué sabour - Pierre de patience) của Atiq Rahimi trước tiên là một báu vật trong đời sống văn học đương đại thế giới, với giải thưởng Goncourt năm 2008, sau đó là một câu chuyện về một huyền thoại báu vật của những người theo thánh Allad.
KIM QUYÊNSinh năm 1953 tại Thừa Thiên (Huế), tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế năm 1976, sau đó về dạy học ở Khánh Hoà (Nha Trang) hơn 10 năm. Từ năm 1988 đến nay, nhà thơ xứ Huế này lại lưu lạc ở thành phố Hồ Chí Minh, tiếp tục làm thơ và viết báo. Chị là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hiện nay là biên tập viên Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật của Sở Thông tin Văn hoá thành phố Hồ Chí Minh.
VÕ QUANG YẾN Tôi yêu tiếng nước tôi Từ khi mới ra đời làm người Phạm Duy
PHẠM NGUYÊN TƯỜNGKhao khát, đinh ninh một vẻ đẹp trường tồn giữa "cuộc sống có nhiều hư ảo", Vú Đá, phải chăng đó chính là điều mà kẻ lãng du trắng tóc Nhất Lâm muốn gửi gắm qua tập thơ mới nhất của mình? Bài thơ nhỏ, nằm nép ở bìa sau, tưởng chỉ đùa chơi nhưng thực sự mang một thông điệp sâu xa: bất kỳ một khoảnh khắc tuyệt cảm nào của đời sống cũng có thể tan biến nếu mỗi người trong chúng ta không kịp nắm bắt và gìn giữ, để rồi "mai sau mang tiếng dại khờ", không biết sống. Cũng chính từ nhận thức đó, Nhất Lâm luôn là một người đi nhiều, viết nhiều và cảm nghiệm liên tục qua từng vùng đất, từng trang viết. Câu chữ của ông, vì thế, bao giờ cũng là những chuyển động nhiệt thành nhất của đời sống và của chính bản thân ông.
MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHTôi nghe rằng,Rạch ròi, đa biện, phân minh, khúc chiết... là ngôn ngữ khôn ngoan của lý trí nhị nguyên.Chan hoà, đa tình, niềm nỗi... là ngôn ngữ ướt át của trái tim mẫn cảm.Cô liêu, thuỷ mặc, bàng bạc mù sương, lấp ló trăng sao... là ngôn ngữ của non xanh tiểu ẩn.Quán trọ, chân cầu, khách trạm, phong trần lịch trải... là ngôn ngữ của lãng tử giang hồ.Điềm đạm, nhân văn, trung chính... là ngôn ngữ của đạo gia, hiền sĩ.
MAI VĂN HOANTập I hồi ký “Âm vang thời chưa xa” của nhà thơ Xuân Hoàng ra mắt bạn đọc vào năm 1995. Đã bao năm trôi qua “Âm vang thời chưa xa” vẫn còn âm vang trong tâm hồn tôi. Với tôi, anh Xuân Hoàng là người bạn vong niên. Tôi là một trong những người được anh trao đổi, trò chuyện, đọc cho nghe những chương anh tâm đắc khi anh đang viết tập hồi ký để đời này.
NGUYỄN KHẮC PHÊ giới thiệuNhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà phê bình Hoài Thanh (1909-2009)Chúng ta từng biết cố đô “Huế Đẹp và Thơ” một thời là nơi hội tụ các văn nhân, trong đó có những tên tuổi kiệt xuất của làng “Thơ Mới” Việt Nam như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên…; nhưng nhà phê bình Hoài Thanh lại đến với Huế trong một hoàn cảnh đặc biệt và có thể nói là rất tình cờ.
LÊ TRỌNG SÂM giới thiệuBà sinh ra và lớn lên ở Painpol và Saint-Malo, một đô thị cổ vùng Bretagne, miền đông bắc nước Pháp. Học trung cấp và tốt nghiệp cử nhân văn chương ở thành phố Nice, vùng xanh da trời miền nam nước Pháp. Là hội viên Hội nhà văn Pháp từ năm 1982, nay bà đã trở thành một trong số ít nhà văn Châu Âu đã tiếp thu và thâm nhập sâu sắc vào rất nhiều khía cạnh của văn hoá Việt Nam.
MAI VĂN HOAN giới thiệu Vĩnh Nguyên tên thật là Nguyễn Quang Vinh. Anh sinh năm 1942 (tuổi Nhâm Ngọ) ở Vĩnh Tuy, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Bố anh từng tu nghiệp ở Huế, ông vừa làm thầy trụ trì ở chùa vừa bốc thuốc chữa bệnh cho người nghèo. Thuở thiếu thời anh đã ảnh hưởng cái tính ngay thẳng và trung thực của ông cụ. Anh lại cầm tinh con ngựa nên suốt đời rong ruổi và “thẳng như ruột ngựa”.