Chúng ta còn mắc nợ cuộc đời sự thật

09:52 15/04/2009
NGUYỄN XUÂN HOÀNG   (Đọc “Lý luận và văn học”, NXB Trẻ 2005 của GS.TS Lê Ngọc Trà)Ra mắt bạn đọc năm 1990, năm 1991, cuốn sách “Lý luận và văn học” của Giáo sư - Tiến sĩ Lê Ngọc Trà được trao giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. 15 năm qua, những tưởng một số vấn đề về lý luận văn học mà cuốn sách đề cập đã không còn mới, đã “lạc hậu” so với tiến trình phát triển của văn học. Nhưng không, khi đọc lại cuốn sách được nhà xuất bản Trẻ tái bản lần thứ nhất năm 2005, những vấn đề mà GS.TS Lê Ngọc Trà đề cập vẫn còn nóng hổi và giữ nguyên tính thời sự của nó.

Không ngại đụng chạm, với tinh thần khoa học, GS.TS Lê Ngọc Trà đã đi sâu, phân tích những vấn đề khá nhạy cảm, điểm nóng của lý luận và văn học, đó là mối quan hệ giữa văn nghệ và chính trị, về vấn đề văn học phản ảnh hiện thực, vấn đề con người trong văn học, văn học và đạo đức, văn học và lương tri của con người v.v...

Với tinh thần trao đổi thẳng thắn, chân thành trung thực, những vấn đề mà GS.TS Lê Ngọc Trà đặt ra xù xì góc cạnh và có sức thuyết phục. Về mối quan hệ giữa văn học và hiện thực, theo ông phản ảnh hiện thực là thuộc tính chứ không phải là nhiệm vụ của văn học. “Việc nhấn mạnh quá mức bản chất phản ảnh và nhiệm vụ mô tả hiện thực của văn học là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng “suy tư tưởng” của khá nhiều tác phẩm văn học trong mấy chục năm qua”. Trong khi nhiều nhà văn rất “cường tráng” về quan điểm lập trường thì lại rất “suy dinh dưỡng” về chất triết học, chiều sâu của sự khái quát, không bộc lộ được bản lĩnh và cách nhìn riêng của nhà văn về thế giới. Cách lựa chọn “an toàn” của người viết đã làm cho văn học nghèo đi. Đó cũng là một trong những nguyên nhân tại sao mấy chục năm qua, chúng ta vẫn chưa có những tác phẩm văn học lớn. Một khi văn học là sự thật, văn học là lương tâm của xã hội, thì việc né tránh sự thật, hoặc phản ảnh sự thật bằng minh họa, phi cá tính, người viết lựa chọn sự an toàn đã dẫn đến một hệ lụy là “văn học chúng ta còn mắc nợ cuộc đời về sự thật”. Là tấm gương phản ảnh đời sống, là lương tâm - tâm hồn nhân loại, cố nhiên văn học ủng hộ sự tiến bộ xã hội, nhưng cũng chính ở đây GS.TS Lê Ngọc Trà cảm thấy lo lắng vì “nếu chỉ viết về các quá trình đó, chỉ say sưa với các khẩu hiệu, các chủ trương, thì trong tình hình hiện nay, văn học chưa làm đầy đủ chức năng xã hội của mình”. Và không ít người cầm bút đã “bẻ cong ngòi bút”, dối mình, dối người và “phạm vào cái điều thiêng liêng nhất của sự sáng tạo”.

Với nỗi lo lắng này, 15 năm trước, GS.TS Lê Ngọc Trà đã khuyến cáo “muốn cứu vãn văn học phải cứu lấy nhà văn, cứu không chỉ phần xác mà cả phần hồn, nhân cách của người cầm bút”.

GS.TS Lê Ngọc Trà đặc biệt tâm huyết khi ông đề cập đến vấn đề con người trong văn học, sự cần thiết phải nhận thức trở lại mối quan hệ giữa văn học và con người: “Chúng ta vẫn bắt gặp con người nhưng phần lớn đó là con người tập thể, con người - quần chúng, con người - nhân dân, chứ chưa phải là những cá nhân, số phận”. Cái điều mà ông cho rất “lạ lùng” là dù đề cao nhiệm vụ phản ảnh hiện thực nhưng văn học nước ta vẫn còn quá ít những tác phẩm đạt đến chủ nghĩa hiện thực sâu sắc trong việc mô tả cuộc sống và con người. Mà một trong những nguyên nhân là con người cụ thể, với tất cả nỗi cô đơn và sự yếu ớt của nó chưa ở vào vị trí trọng tâm của tác phẩm. Và nhà văn chúng ta đã có một “quan niệm không đầy đủ về chủ nghĩa hiện thực XHCN..., miêu tả một chiều bước đi của cuộc sống, sự phức tạp của con người”.

Cũng thật quả cảm khi GS.TS Lê Ngọc Trà đã đề cập đến một vấn đề nhạy cảm mà nhiều nhà nghiên cứu né tránh, đó là mối quan hệ giữa văn nghệ và chính trị. Theo ông cần phải phân biệt rõ:

a/ Quan hệ của văn nghệ với một chế độ chính trị.

b/ Quan hệ của văn học với chính trị như là những hình thái ý thức xã hội. Từ mối quan hệ thứ hai, GS.TS Lê Ngọc Trà đã phân biệt rõ sự khác nhau giữa ý thức chính trị và ý thức nghệ thuật, chất chính trị và chất văn, tư duy chính trị và tư duy văn nghệ... Nếu nhà chính trị chú ý đến cái logic, cái tất yếu, thì với nhà văn sự quan tâm là ở đằng sau cái logic đó, nó là tiếng nói về số phận con người. Với sự nhạy cảm đặc biệt về cái đẹp, về quyền sống của con người, “nghệ sĩ giữ một mối quan hệ phức tạp với nhà chính trị. Khi chính trị trùng với lương tri, họ là bạn đường, khi chính trị dẫm đạp lên lương tri, họ là địch thủ”. Trên cơ sở của sự phân tích khoa học và sự khác biệt giữa văn nghệ và chính trị, GS.TS Lê Ngọc Trà cho rằng “coi thường đặc thù về nội dung nghệ thuật sẽ dẫn đến đồng nhất giữa nghệ thuật và tuyên truyền”, “biến nghệ thuật thành sự minh họa cho các tư tưởng chính trị hay chân lý đạo đức” và “chất chính trị cao nhất của văn nghệ nằm ngay trong bản thân nó”.

Thẳng thắn, trung thực, chân thành và không ngại trao đổi, đụng chạm, cuốn lý luận và văn học của GS.TS Lê Ngọc Trà là lời tâm sự của một nhà nghiên cứu. Dù đã 15 năm, nhưng những vấn đề mà ông đề cập vẫn cứ nóng hổi tính thời sự. Bởi đây đó vẫn còn cách viết minh họa một chiều, hời hợt, không đi đến tận cùng bản chất đời sống. Cái cõi người mênh mông với bao nhiêu trăn trở, lo âu và hy vọng vẫn còn là một khoảng trống trong các tác phẩm văn chương. Chính cách tự khép kín về khoa học xã hội “khiến cho khoa học xã hội nước ta nói chung và lý luận văn học nói riêng lạc hậu nhiều so với thế giới, biến thành trở lực kìm hãm sự vận động của tư duy xã hội, tư duy nghệ thuật”.

Lý luận mà không nặng nề, đề cập đến những vấn đề lớn mà nhẹ như không. Giọng văn thẳng thắn, điềm đạm mà vỡ vạc bao nhiêu vấn đề về lý luận văn học, cuốn sách thực sự là một cẩm nang giúp người yêu văn chương, các thầy cô giáo dạy văn tiếp cận văn chương sâu sát hơn. Và đặc biệt, nó giúp những người viết trẻ tránh vết xe đổ của những người đi trước, có sự lựa chọn cho riêng mình để có những tác phẩm hay sinh thành từ máu thịt đời sống hôm nay.

N.X.H

(201/11-05)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN ĐÌNH SỬTrong cuốn sách dịch, đúng hơn là trích dịch Những vấn đề thi pháp Đoxtoiepxki của M.M Bakhtin, chúng tôi đã giới thiệu những lời đánh giá quan trọng của các học giả thế kỷ XX đối với Bakhtin: "Bakhtin, nhà lý luận văn học lớn nhất của thế kỷ XX" (TS. Todorov). "Bakhtin, người giữ cho các khoa học nhân văn đối tượng riêng của chúng" (X.X. Avêzinxép), "Bakhtin, người đem lại một quan niệm hoàn toàn mới về ngôn từ tiểu thuyết" (A. Tritrêrin)...

  • PHONG LÊViệc xác định một đề tài nghiên cứu cho bất cứ ai bước vào con đường khoa học, theo tôi là động tác quan trọng đầu tiên, có ý nghĩa quyết định, như là một ô cửa, một đột phá khẩu trổ ra cái bầu trời, hoặc quang đãng hoặc vần vụ mưa gió, rồi anh ta sẽ được bay lượn ở trong đó.

  • ĐỖ LAI THUÝNgàn mây tràng giang buồn muôn đời                                 Nguyễn Xuân Sanh

  • VŨ QUẦN PHƯƠNGTên thật cũng là bút danh, sinh ngày 18-9-1949 tại quê gốc huyện Lệ Thuỷ, Quảng Bình.

  • TRẦN THỊ THANHTừ Hán Việt là một số lớp từ khá quan trọng trong ngôn ngữ tiếng Việt của người Việt Nam. Với con số 60-70% từ Hán Việt có trong tiếng Việt, nó đã và đang đặt ra một nhiệm vụ cấp thiết làm thế nào để cho mọi người dân Việt Nam, đặc biệt là tầng lớp thanh, thiếu niên viết và nói đúng tiếng Việt trong đó có từ Hán Việt.

  • HỒ TIỂU NGỌCLTS: Nhân dịp kỷ niệm 53 năm Quốc khánh nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa, Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài thơ sau đây của tác giả Đoàn Duy Thành. Bài thơ thể hiện tình hữu nghị cao quý của nhân dân hai nước Việt - Trung.

  • HỒNG NHU            (Tham luận tại Hội nghị Văn học Miền Trung lần thứ II tháng 9-2002) LTS: Hội nghị văn học miền Trung lần thứ hai vừa diễn ra tại thị xã Sầm Sơn, Thanh Hoá trong 2 ngày 19 và 20 tháng 9 năm 2002. Gần 80 nhà văn của 18 tỉnh thành từ Bình Thuận đến Thanh Hoá đã về dự. Ngoài ra còn có đại diện các hội đồng chuyên môn, các ban công tác, các cơ quan báo chí xuất bản của Hội Nhà văn Việt cũng có mặt trong cuộc hội ngộ này.

  • THÁI BÁ LỢIMột nhà văn lớp đàn anh của tôi tâm sự: Chỉ có miền Trung mới có văn xuôi thôi, vì ở đây từ đất đai, khí hậu con người luôn luôn được thử thách, được cọ xát, được tôi rèn, với hoàn cảnh khắc nghiệt như vậy mới bật ra tư tưởng, mà văn xuôi là tư tưởng.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO1. Không nhà thơ nào muốn lặp lại những gì thơ ca đã có, kể cả lặp lại chính mình. Đi tìm cái lạ cái mới, chính là bản chất của sáng tạo.

  • NGUYỄN QUANG HÀHình như trong máu của người Việt đều có một chút máu thi nhân. Cho nên thấy ai cũng mê thơ cả. Chả thế mà tít mãi vùng hẻo lánh, các bà mẹ ru con bằng Kiều, bằng ca dao. Lời ru giống như một sự ngẫu hứng, cứ thế tự trào ra từ tâm hồn mình.

  • TRẦN THANH ĐẠMNgày13 tháng 06 năm 2002 vừa qua là dịp kỷ niệm lần thứ 75 ngày mất của một trong những nhà yêu nước và cách mạng tiền bối, một nhà giáo dục lớn của nước ta đầu thế kỷ XX: chí sĩ Lương Văn Can (1854-1927).

  • LÊ HỒNG SÂM Cách đây mươi năm, trong một cuộc phỏng vấn thân mật, chị Lộc Phương Thuỷ có hỏi tôi về những kỷ niệm đáng nhớ, liên quan đến văn học, nhất là văn học Pháp. Tôi đã kể cho chị Thuỷ mẩu chuyện nhỏ mà hôm nay tôi xin thuật lại, dưới tiêu đề phù hợp với một trong hai nội dung của hội thảo Fantine, Cosette và chiếc đòn gánh Việt .

  • HỒNG NHULTS: Những cuộc trao đổi mang tính nghề nghiệp về thơ ở tầm "vĩ mô" dường như đang co lại ở tầm "vi mô". Các ý kiến khác nhau, thậm chí ngược nhau trong tranh luận học thuật là chuyện bình thường. Song, sẽ không bình thường khi công cuộc đổi mới của Đảng đã bước vào nền kinh tế tri thức mà vẫn còn những "tư duy thơ" theo cơ chế suy diễn với những mục đích gì đó, ngoài thơ.Nhằm rộng đường dư luận, Sông Hương xin được trao đổi lại một trường hợp cụ thể sau đây.

  • MAI VĂN HOANỞ Huế tôi đã có nghe bạn bè nói sơ qua về cuộc hội thảo tập thơ "Đám mây lơ lửng" của Hoàng Vũ Thuật, tác phẩm đoạt giải A giải thưởng VH-NT Lưu Trọng Lư lần thứ hai (1996 - 2000) do Hội Văn nghệ Quảng Bình tổ chức.

  • ĐÀO DUY HIỆP“Đi tìm thời gian đã mất” của Marcel Proust (1871-1922) là một tiểu thuyết đồ sộ gồm bảy tập với trên dưới ba nghìn trang ngày nay đã được độc giả toàn thế giới say sưa đón đọc và được nhiều nhà văn, nhà nghiên cứu đánh giá rất cao.

  • THÁI THU LANThông thường, mỗi văn nhân nghệ sĩ đều có nỗi đau đời, nỗi đau nhân thế. Nỗi đau này băt nguồn từ tấm lòng nhân ái và ý thức trách nhiệm của người nghệ sĩ trước cuộc sống và số phận con người qua những biến động của xã hội.

  • HOÀNG QUẢNG UYÊNTôi yêu mến và quý trọng những câu thơ như là "không thơ" của chị:Câu thơ nước chảy bèo trôi/ Vẫn nghiêng về phía phận đời khổ đau. (Hương cỏ)

  • FRANÇOIS JULLIEN                                        LTS: Hạ tuần tháng tư năm 2001, nhà triết học F.Jullien đến thăm Hà Nội nhân dịp lần đầu tiên công trình của ông được giới thiệu ở Việt Nam trong văn bản tiếng Việt (Xác lập cơ sở cho đạo đức- N.x.b Đà Nẵng, 2000). Cuối năm nay sẽ được xuất bản bản dịch công trình Bàn về tính hiệu quả ( F.Jullien. Traité de l’efficacité.Grasset, 1997). Sau đây là bản dịch chương III của tác phẩm này (do khuôn khổ của tạp chí, có lược đi một số đoạn). Nhan đề do chúng tôi đặt. Trong bài, số thiên đơn thuần (chẳng hạn th.81) là số thiên trong sách Đạo Đức Kinh còn gọi là sách Lão tử.

  • NGÔ MINH Tôi quen biết với anh Tường hơn 25 năm nay ở Huế như một người bạn vong niên thân thiết. Trong máy tính của tôi còn lưu trữ bài Anh Tường ơi viết từ năm 1998, gần 3000 chữ chưa công bố. Đó là bài viết mà nhà văn Nguyễn Quang Hà, Tổng biên tập Tạp chí Sông Hương lúc đó, bảo tôi viết, sau chuyến chúng tôi đi thăm anh Tường bị trọng bệnh đang nằm hôn mê ở Bệnh viện Đà Nẵng về.

  • HỒ THẾ HÀHoàng Phủ Ngọc Tường dấn thân vào nghiệp bút nghiên bằng thơ cùng những năm tháng "hát cho đồng bào tôi nghe" sục sôi nhiệt huyết đấu tranh chống thù và ước mơ hòa bình trên quê mẹ Việt yêu dấu.