NGUYỄN VĂN PHƯƠNG
Nhà thơ Phương xích lô - Ảnh: internet
Giếng trong quê nhà
Cây khô chờ đợi giọt mưa
Tôi khô chờ đợi giọt thơ dịu dàng
Giữa trời hạ nắng chang chang
Đi trong sa mạc dối gian lọc lừa
Quý từ lời nói đơn sơ
Không hoa mỹ, chẳng đẩy đưa qua về
Đến trong tận tấm lòng quê
Bao giờ cũng giữ lời thề thủy chung
Đã qua núi tận sông cùng
Về bên em, uống giếng trong quê nhà
Khi phụ thợ nề
Nửa đêm gánh nước dưới trăng
Hai thùng mơ, thực thăng bằng trên vai
Có trăng đêm cũng như ngày
Có thơ bể khổ cũng đầy niềm vui.
Tượng đá
Rượu sầu đông đặc hồn tôi
Niềm đau đông đặc một thời xa em
Trăng mờ đông đặc hơi đêm
Mùa đông cô lại giữa niềm quạnh hiu
Em đi rã bóng mây chiều
Phai theo hương tóc, nhạt theo men tình
Em đi còn lại một mình
Tôi như tượng đá lặng thinh giữa đời
(TCSH44/01-1991)
LÊ HUỲNH LÂM
NGÔ MINH
NGUYỄN KHẮC THẠCH
PHẠM BÁ NHƠN
Nếu như “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh xoáy sâu và bi kịch tình yêu và bi kịch con người thời hậu chiến với những ám ảnh chiến tranh thì Trần Vàng Sao đã tái hiện sắc nét một tiếng khóc lớn của những người đã hy sinh trong chiến tranh nhưng vẫn mang trọn nỗi bi kịch - bi kịch của liệt sĩ thời hậu chiến.
LÊ VĨNH THÁI
NGUYỄN TRỌNG TẠO
LÊ VĨNH THÁI
NGÔ CÔNG TẤN
ĐỨC SƠN
HẢI BẰNG
NGUYÊN QUÂN
NGÔ MINH
(Trích)
55 năm qua, từ những giảng đường Đại học Huế, biết bao thế hệ cầm bút đã đem tâm tình của mình viết thành lịch sử. Trong khuôn khổ kỷ niệm 55 năm thành lập Đại học Huế, TCSH xin giới thiệu chùm thơ của một số tác giả quen thuộc. Sự chọn lựa này không mang tính đại diện cho những thế hệ ở Đại học Huế, nhưng đây là những tên tuổi đã ít nhiều góp phần quan trọng cho sự phong phú đa dạng của một xứ sở được tôn vinh là của thi ca.
"đòi hỏi một chủ nghĩa anh hùng lâu dài nhất, kiên trì nhất, khó khăn nhất của công tác quần chúng và hằng ngày"
LÊNIN
BẠCH DIỆP
LTS: Nhà thơ Ngô Kha sinh năm 1935 tại Huế, dạy văn ở trường Quốc Học Huế khoảng từ 1960-1973. Bạn đọc ở các đô thị miền Nam trước đây đã từng biết Ngô Kha qua hai tập thơ buồn của anh: Hoa cô độc (1962) và Ngụ ngôn của người đãng trí (1969).
QUỐC MINH
LÊ VĨNH THÁI