VÕ XUÂN TRANG
Vì ai nên nỗi sầu nầy
Chùa Tiên vắng vẻ, tớ thầy xa nhau?
Ảnh: internet
Câu ca dao này hiện có các dị bản sau đây:
1. Vì ai nên nỗi sầu nầy,
Chùa Tiên vắng vẻ, tớ thầy xa nhau?
(Việt Nam phong sử - Nguyễn Văn Mại)
2. Vì đâu nên nỗi nước này,
Chùa Tiên vắng vẻ, tớ thầy xa nhau?
(Cố đô Huế - Thái Văn Kiểm)
3. Vì ai nên nỗi sầu nầy
Chùa Tiên vắng khách, tớ thầy xa nhau?
(Ca dao đời Tây Sơn)
Do có những dị bản như vậy nên từ trước đến nay đã có nhiều cách hiểu khác nhau về nội dung câu ca dao nói trên.
Để hiểu một cách đầy đủ nội dung của câu ca dao, chúng tôi thấy cần phải làm sáng tỏ các vấn đề sau: Chùa Tiên ở đâu? Tại sao Chùa Tiên lại vắng vẻ (hay vắng khách)? Tớ và thầy mà câu ca dao nhắc đến ám chỉ những ai? Và ai đã gây nên cảnh tớ thầy xa nhau đó?
Trước hết hãy tìm hiểu về Chùa Tiên. Chùa Tiên là tên gọi dân gian ở Huế để chỉ một cái chùa có tên chữ là Chùa Kim Tiên. Chùa Kim Tiên hiện thuộc ấp Bình An, phường Trường An, thành phố Huế. Chùa tọa lạc trên một quả đồi cách chùa Từ Đàm khoảng 400 mét về phía Nam và sát chùa Từ Quang. Tên Chùa Tiên hiện nay nhân dân ở đây vẫn còn dùng để chỉ tên một cái khe chảy qua trước mặt chùa Kim Tiên, đó là khe Chùa Tiên. Với tên gọi dân gian này thì mối liên hệ giữa Chùa Kim Tiên và Chùa Tiên không còn nghi ngờ gì nữa. Chùa Kim Tiên được Quốc Sử quán triều Nguyễn miêu tả như sau: Chùa Kim Tiên ở ấp Bình An, tương truyền chùa này do Hòa thượng Bích Phong làm ra, đến đời chúa Nguyễn Phúc Khoát được trùng tu, sơn thiếp xanh vàng rực rỡ, trước dựng lầu Vọng tiên, quy chế tráng lệ. Sau gặp binh hỏa bỏ hoang phế, nay người trong ấp nhân theo nền cũ làm lại, trước chùa có giếng xưa, sâu hơn 30 thước, nước rất trong sạch (nay vẫn còn). Trương truyền xưa có tiên nữ ban đêm tắm ở giếng ấy nên cũng có tên là Giếng Tiên.
Theo sự miêu tả của các sử quán nhà Nguyễn thì chùa Kim Tiên dưới thời các chúa Nguyễn là một chùa rất đẹp, được sơn xanh thiếp vàng rất tráng lệ.
Đọc kỹ bài "Ai tư Vãn" của Ngọc Hân chúng tôi thấy bóng dáng chùa Kim Tiên được hiện ra tuy phảng phất nhưng cũng khá rõ nét. Ngoài "Giếng Tiên", "Lầu Vọng Tiên" mà quốc sử quán đã miêu tả, bài Ai tư Vãn còn nhắc đến cầu Tiên.
"Gió hiu hắt phòng tiêu lạnh lẽo,
Trước thềm lan hoa héo ron ron
Cầu Tiên khói tỏa đình non
Xe rồng thăm thẳm bóng loan rầu rầu"
Cầu Tiên là một cái cầu bắc qua khe Chùa Tiên, cầu này nay đã mất nhưng vị trí của nó nhiều người còn nhớ.
Ngọc Hân cũng có nhắc tới "lầu Vọng Tiên" và miêu tả cảnh trí của chùa với những phong, hoa, tuyết, nguyệt rất kỳ ảo.
Khi trận gió hoa bay thấp thoáng,
Ngỡ hương trời bảng lảng còn đâu
Vội vàng sửa áo lên chầu
Thương ôi, quạnh quẽ trước lầu nhện chăng!
Khi bóng trăng lá in lấp lánh
Ngỡ tàn vàng nhớ cảnh ngự chơi
Vội vàng dạo bước tới nơi,
Thương ôi vắng vẻ giữa trời tuyết sa!"
Dưới con mắt của Ngọc Hân, chùa Kim Tiên thật sự là một cõi tiên, một cảnh tiên hương
"No trông trời đất bốn phương
Cõi tiên thăm thẳm biết đường nào ra?"
"... Não người thay cảnh tiên hương
Dạ thường quanh quất, mắt thường ngóng trông".
Sự miêu tả của Ngọc Hân về nơi ở của mình có phần trùng hợp và có phần bổ sung đầy đủ thêm cho sự miêu tả của quốc sử quán triều Nguyễn về chùa Kim Tiên (Cầu tiên, cõi tiên, cảnh tiên..) Điều lý thú nữa là qua bài Ai tư Vãn, chúng ta thấy hình ảnh Quang Trung hiện lên khá đậm nét. Quang Trung đã đi xe qua cầu Tiên để đến với Ngọc Hân, đã cùng với Ngọc Hân dạo chơi trong vườn chùa, và cùng thường lên lầu vọng tiên để cùng ngắm cảnh và nghe ca hát. Tất cả những kỷ niệm đó đã thuộc về dĩ vãng nhưng luôn luôn hiện ra trước mắt Ngọc Hân làm cho nàng: "Dạ thường quanh quất, mắt thường ngóng trông".
Tài liệu quốc sử quán triều Nguyễn cho biết: Sau khi chiếm Phú Xuân, quân Tây Sơn đã chiếm phần lớn các chùa ở gò Dương Xuân để sử dụng. Chùa Báo Quốc được dùng làm kho thuốc súng, chùa Thiền Lâm làm dinh thự của Bùi Đắc Tuyên. Một số chùa khác đều làm "nhà trọ kinh đô", và chùa Kim Tiên cũng được chọn làm nơi ở của Bắc Cung Hoàng hậu Ngọc Hân.
Trong chiến dịch trả thù nhà Tây Sơn, cùng với sự quật phá lăng mộ Quang Trung, một số chùa chiền có liên quan đến Tây Sơn cũng bị triều Nguyễn triệt phá, trong đó có chùa Kim Tiên là một trong những chùa bị phá nặng nhất và chỉ còn lại "nền cũ" mà thôi. Sau cơn "binh hỏa" (tức là sau cuộc chiến giữa Nguyễn Ánh và Tây Sơn), nhiều chùa ở gò Dương Xuân bị phá trong chiến dịch trả thù Tây Sơn đã được các bà Hoàng hậu và công chúa nhà Nguyễn vận động quyên góp để tu sửa lại. Riêng Chùa Kim Tiên họ không tu sửa nên cứ bỏ hoang phế mãi. Đó là lý do giải thích tại sao Chùa Kim Tiên trở nên vắng vẻ.
Vấn đề tiếp theo cần tìm hiểu là tớ và thầy trong câu ca dao ám chỉ ai? Và đã gây nên nỗi sầu đó?
Văn học dân gian nói về thời Tây Sơn trên đất Phú Xuân - Huế hiện sưu tầm được ít ỏi. Triều đại Tây Sơn tồn tại ở Phú Xuân quá ngắn ngủi (1786-1801) nên văn học dân gian chưa đủ điều kiện để ăn sâu bén rễ trong nhân dân. Mặt khác, sự trả thù nghiệt ngã của triều Nguyễn suốt trong một thời gian dài đã làm cho những sáng tác dân gian nói về thời Tây Sơn nếu có, cũng dễ dàng bị lãng quên, vì họ sợ liên lụy. Chỉ có những sáng tác nào nói về Tây Sơn nhưng nội dung có vẻ mơ hồ xa xôi bóng gió, có thể hiểu theo nhiều cách khác nhau, dân gian mới dám lưu truyền phổ biến. Câu ca dao mà chúng ta đang tìm hiểu phân tích chính là thuộc dạng này. Để cho câu ca dao được lưu truyền phổ biến rộng rãi, dân gian đã đưa vào câu ca dao một nội dung mơ hồ bóng gió ai hiểu thế nào cũng được. Vì lý do đó nên vấn đề "tớ", "thầy" và đại từ "ai" trong câu ca dao nói trên, đến nay ít ra cũng có bốn cách hiểu khác nhau:
1- Theo Nguyễn Văn Mại thì câu ca dao này liên quan đến Trần Thủ Độ, Lý Huệ Tông và hoàng hậu của Lý Huệ Tông. "Trần Thái Tông được Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi lên làm vua cho Trần Thủ Độ làm Thái sư, phế Lý Huệ Tông cho ở chùa Chân Giáo. Sau đó Trần Thủ Độ sợ lòng người còn nhớ vua cũ mà sinh biến, nên bức Lý Huệ Tông treo cổ chết, và giáng hoàng hậu của Lý Huệ Tông làm Thiên Cực công chúa, rồi thu nạp làm vợ. Tôn Thất nhà Lý do đó mà sầu trước cảnh nhà Trần không có lòng nhân hậu. Theo Nguyễn Văn Mại trong câu ca dao này, "ai" chỉ Trần Thủ Độ, “thầy" chỉ Lý Huệ Tông và “Tớ” chỉ hoàng hậu của Lý Huệ Tông, cách lý giải của Nguyễn Văn Mại hoàn toàn thiếu cơ sở. Một là chùa mà Lý Huệ Tông ở sau khi bị phế là chùa Chân Giáo không hề liên quan gì đến chùa Tiên ở trong câu ca dao; hai là, quan hệ giữa hoàng hậu của Lý Huệ Tông và Lý Huệ Tông không thể là quan hệ tớ - thầy được. '
2- Theo Thái Văn Kiểm thì câu ca dao này liên quan đến chúa Nguyễn, chúa Trịnh và những người ở chùa Kim Tiên. Thái Văn Kiểm cho rằng: "Chùa Kim Tiên do chúa Trịnh Tráng tức Thanh Đô Vương (1623-1657) dựng lên trong thời kỳ chiếm đất Thuận Hóa. Về sau chúa Nguyễn thắng chúa Trịnh, lấy lại được hai tỉnh Thuận Hóa và Quảng Nam. Quân Trịnh phải dồn binh ở Chùa Kim Tiên và kéo quân về Bắc để ngôi chùa quạnh quẽ. Bùi ngùi kẻ ở người đi họ mới thốt ra những lời bi ai thống thiết như vậy". Với cách hiểu của Thái Văn Kiểm thì thầy ở đây là quan quân chúa Trịnh còn tớ là những người ở chùa Kim Tiên, và ai chính là chúa Nguyễn. Cách giải thích này cũng thiếu cơ sở thực tế. Quân Trịnh vào Phú Xuân thời gian ngắn, lại phá phách, cướp bóc nhiều, nên không được lòng dân. Vì vậy quan hệ giữa quân Trịnh và những người ở chùa Kim Tiên cũng như nhân dân Phú Xuân không thể là quan hệ tớ - thầy được. Lịch sử còn ghi lại rất rõ, khi quân Tây Sơn chiếm Phú Xuân thì nhân dân đã lùng bắt quân Trịnh còn trốn đem nộp cho Tây Sơn không sót một tên. Ở đây phải chăng Thái Văn Kiểm có sự lầm lẫn giữa quân chúa Nguyễn và quân Tây Sơn?
3- Có người giải thích câu ca dao trên chỉ liên quan đến Tây Sơn và chùa Kim Tiên.
Sau khi chùa Kim Tiên bị Tây Sơn chiếm dụng thì các sư sãi và các đồ đệ ở chùa phải xa nhau mỗi người một ngã. Như vậy, Ai trong câu ca dao là Tây Sơn, Thầy là các sư sãi, còn tớ là những người phục vụ ở chùa. Cách lý giải này cũng hoàn toàn không ổn. Chúng tôi đã tìm hiểu kỹ trong nhà chùa không hề có quan hệ tớ-thầy. Quan hệ tớ-thầy chỉ dùng ở ngoài đời.
4- Vậy Tớ - Thầy mà câu ca dao nhắc đến là những ai?
Như trên chúng tôi đã nói, chùa Kim Tiên đã được Tây Sơn chiếm dụng làm nơi Ngọc Hân ở. Và tại đây Quang Trung khi còn sống cũng thường ngự chơi với Ngọc Hân. Vì vậy, tại chùa Kim Tiên không chỉ có những người phục vụ Ngọc Hân, mà còn có bộ phận phục vụ cả Quang Trung nữa. Bài "Ai tư Vãn" đã nhắc tới cảnh khi vua Quang Trung đang sống:
Xưa sao gang tấc gần chầu
Trước sân phong nguyệt, trên lầu sinh ca.
Mỗi lần Quang Trung đến ngự chơi đều có đàn ca xướng hát. Sau Quang Trung mất, Ngọc Hân phải sống trong cảnh cô đơn: "Gió hiu hắt phòng tiêu lạnh lẽo". Những người phục vụ mẹ con Ngọc Hân cũng hết sức cám cảnh đơn chiếc lẻ loi của Ngọc Hân. Do đó giữa Ngọc Hân và những người phục vụ chắc chắn đã hình thành một quan hệ tình cảm gắn bó: Quan hệ Tớ Thầy thực sự. Sau khi Ngọc Hân mất, những người phục vụ vẫn tiếp tục sống ở chùa Kim Tiên để thờ phụng bà, và quan hệ Tớ Thầy coi như vẫn tồn tại. Chùa Kim Tiên bị phá sạch, lúc đó Tớ và Thầy mới thật sự xa nhau. Như vậy, trong câu ca dao trên Thầy là Ngọc Hân, còn tớ là những người phục vụ Ngọc Hân và Quang Trung ở chùa Kim Tiên và cũng có thể là cả những người phục vụ triều đình Tây Sơn. Còn "ai" trong câu ca dao là Nguyễn Ánh và triều Nguyễn.
Với cách hiểu đó thì câu ca dao này là một lời oán trách của nhân dân đối với Nguyễn Ánh, và cũng là một sự cảm hoài, thương tiếc của nhân dân Phú Xuân đối với Ngọc Hân và triều đại Tây Sơn.
V.X.T
(TCSH56/07&8-1993)
NGUYỄN VĂN THỊNHCũng như trên cả nước, trước cách mạng tháng Tám, làng (tên gọi chữ Hán là xã), ở Thừa Thiên Huế là một đơn vị cơ bản trong tổ chức hành chính của các vương triều.
VÕ NGỌC LANNếu cuộc đời người là một trăm năm hay chỉ là sáu mươi năm theo vòng liên hoàn của năm giáp, thì thời gian tôi sống ở Huế không nhiều. Nhưng những năm tháng đẹp nhất của đời người, tôi đã trải qua ở đó. Nơi mà nhiều mùa mưa lê thê cứ như níu giữ lấy con người.
LTS: Đại Học Huế đang ở tuổi 50, một tuổi đời còn ngắn ngủi so với các Đại học lớn của thế giới. Nhưng so với các Đại học trong nước, Đại Học Huế lại có tuổi sánh vai với các Đại học lớn của Việt như ở Hà Nội và TP Hồ Chí Minh. Trên hành trình phát triển của mình, Đại Học Huế đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế, giáo dục, văn hoá ở miền Trung, Tây Nguyên, đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao cho khu vực và cả nước. Nhân dịp kỷ niệm này, TCSH phân công ông Bửu Nam, biên tập viên tạp chí, trao đổi và trò chuyện với PGS.TS. Nguyễn Văn Toàn, Giám đốc Đại Học Huế. Trân trọng giới thiệu với bạn đọc cuộc trò chuyện này.
VÕ ĐẮC KHÔICó một thời người Huế loay hoay đi vỡ núi, phá rừng trồng khoai sắn. Có một thời người Huế tìm cách mở cảng nước sâu để vươn ra biển lớn, hay đón những con tàu viễn xứ xa xôi. Cả nước, các tỉnh thành láng giềng như Quảng Bình, Quảng Trị, Đà Nẵng cũng đều ra sức làm như thế, sao ta có thể ngồi yên?
TRẦN ĐÌNH SƠNĐất Việt là cái nôi sinh trưởng của cây trà và người Việt biết dùng trà làm thức uống thông thường, lễ phẩm cúng tế, dâng tặng, ban thưởng từ hàng ngàn năm nay.
NGUYỄN XUÂN HOÀNGTừng là đất Kẻ Chợ – kinh đô triều Nguyễn xưa, ẩm thực Huế dựa trên nền tảng triết lý của cái đẹp, món ăn món uống phải ngon nhưng nhất thiết phải đẹp, vị phải đi với mỹ, thiếu mỹ thì không còn vị nữa.
TRƯƠNG THỊ CÚCTrong vô vàn những bài thơ viết về Huế, hai câu thơ của Phan Huyền Thư dễ làm chúng ta giật mình:Muốn thì thầm vuốt ve Huế thật khẽLại sợ chạm vào nơi nhạy cảm của cơ thể Việt Nam (Huế)
FRED MARCHANT(*) Trong chuyến viếng thăm Huế lần thứ hai vào năm 1997, tôi làm một bài thơ đã đăng trong tập thứ hai của tôi, Thuyền đầy trăng (Full Moon Boat). Bối cảnh bài thơ là một địa điểm khảo cổ nổi danh ở Huế. Có thể nói là bài thơ này thực sự ra đời (dù lúc đó tôi không biết) khi nhà thơ Võ Quê đề nghị với tôi và các bạn trong đoàn ghé thăm Đàn Nam Giao trước khi đi ăn tối ở một quán ăn sau Hoàng Thành bên kia sông Hương.
TRẦN KIÊM ĐOÀNDu khách là người trong mắt nhìn và qua cảm nhận của chính người đó.
TRƯƠNG THỊ CÚCTừ buổi hồng hoang của lịch sử, hình ảnh ban đầu của xứ Huế chỉ thấp thoáng ẩn hiện qua mấy trang huyền sử của đất nước Trung Hoa cổ đại. Tài liệu thư tịch cổ của Trung Quốc đã kể lại từ năm Mậu Thân đời vua Đường Nghiêu (2353 năm trước Công nguyên), xứ Việt Thường ở phương Nam đã đến hiến tặng vua Nghiêu con rùa thần từng sống qua ngàn năm tuổi.
HỒ ĐĂNG THANH NGỌCCó một hiện tượng lịch sử lý thú, ở những nơi khác vốn dĩ bình thường nhưng ở Huế theo tôi là rất đặc biệt, đó là tại mảnh đất này sau hơn ba mươi năm ngày đất nước thống nhất, đã hình thành một thế hệ nữ doanh nhân thành đạt giữa chốn thương trường.
MINH TÂMTôi nghe bà con bán tôm ở chợ Bến Ngự kháo nhau: Dân nuôi tôm phá Tam Giang đã xây miếu thờ “Ông tổ nghề” của mình gần chục năm rồi. Nghe nói miếu thờ thiêng lắm, nên bà con suốt ngày hương khói, cả những người nuôi tôm ở tận Phú Lộc, dân buôn tôm ở Huế cũng lặn lội vượt Phá Tam Giang lễ bái tổ nghề.
PHẠM THỊ ANH NGA"Hiểu biết những người khác không chỉ đơn giản là một con đường có thể dẫn đến hiểu biết bản thân: nó là con đường duy nhất" (Tzvetan Todorov)
TRẦN ĐỨC ANH SƠNSau hơn 1,5 thế kỷ được các chúa Nguyễn chọn làm thủ phủ của Đàng Trong, đến cuối thế kỷ XVIII, Huế trở thành kinh đô vương triều Tây Sơn (1788 - 1801) và sau đó là kinh đô của vương triều Nguyễn (1802 - 1945).
TRƯƠNG THỊ CÚC Sông Hương là một trong những nét đẹp tiêu biểu của thiên nhiên xứ Huế. Sông là hợp lưu của hai nguồn Hữu Trạch, Tả Trạch, chảy qua vùng đá hoa cương cuồn cuộn ghềnh thác, đổ dốc từ độ cao 900 mét đầu nguồn Hữu trạch, 600 mét đầu nguồn Tả trạch, vượt 55 ghềnh thác của nguồn hữu, 14 ghềnh thác của nguồn tả, chảy qua nhiều vùng địa chất, uốn mình theo núi đồi trùng điệp của Trường Sơn để gặp nhau ở ngã ba Bàng Lãng, êm ả đi vào thành phố, hợp lưu với sông Bồ ở Ngã Ba Sình và dồn nước về phá Tam Giang, đổ ra cửa biển Thuận An.
Chúng ta biết rằng trong thời đại ngày nay, khi đầu tư xây dựng những cơ sở nhằm đáp ứng nhu cầu cao của người đi du lịch, văn hóa ẩm thực được xem như là cánh cửa đầu tiên được mở ra để thu hút du khách.
Chúng tôi đi thăm đầm chim Quảng Thái, theo ông Trần Giải, Phó chủ tịch huyện Quảng Điền.
I. Chúng tôi xin tạm hiểu như sau về văn hóa Huế. Đó là văn hóa Đại Việt vững bền ở Thăng Long và Đàng Ngoài chuyển vào Thuận Hóa - Phú Xuân.
Thúng mủng Bao La đem ra đựng bột. Chiếu Bình Định tốt lắm ai ơi. Tạm tiền mua lấy vài đôi. Dành khi hiếu sự trải côi giường Lào.
LTS: Tiến sĩ Nguyễn Thuyết Phong hiện đang dạy tại trường đại học Kent State thuộc tiểu bang Ohio, . Đây là một trong những bài trích ra từ cuốn Hồi ký âm nhạc, gồm những bài viết về kinh nghiệm bản thân cùng cảm tưởng trong suốt quá trình đi đó đây, lên núi xuống biển, từ Bắc chí Nam của ông để sưu tầm về nhạc dân tộc. Được sự đồng ý của tác giả, TCSH xin trân trọng giới thiệu cùng độc giả.