Chủ tịch Hồ Chí Minh và nước Mỹ

10:00 05/03/2009
HÀ VĂN THỊNHTrong lịch sử của loài người, những vĩ nhân có tầm vóc và sự nghiệp phi thường chỉ có khoảng vài chục phần tỷ. Nhưng có lẽ rất chắc chắn rằng sự bí ẩn của những nhân cách tuyệt vời ấy gấp nhiều lần hơn tất cả những con người đang sống trên trái đất này. Tôi đã rất nhiều lần đọc Hồ Chí Minh Toàn tập, nhưng mỗi lần đều trăn trở bởi những suy tư không thể hiểu hết về Người.

Con người, sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh dường như là sự kết tinh, thăng hoa của mọi điều đẹp đẽ nhất của dân tộc Việt . Đến với Người, mọi sự khám phá gần như bất lực; mọi sự hiểu biết phải bối rối, vụng về... Chính vì lẽ này, tôi chỉ dám trình bày một vấn đề thật nhỏ: Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nghĩ, hiểu về nước Mỹ như thế nào?                          

1. Trong Hồ Chí Minh toàn tập, những nhà tuyển chọn đã sai khi để bài viết Tâm địa thực dân là thứ nhất, bài đầu tiên trong sự nghiệp viết lách và thể hiện tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bài đó không thể viết trước ngày 27/6/1919(1). Trong khi ấy, có một bài viết trước đấy rất lâu lại để sau; bài Thư gửi Tổng thống Mỹ đề ngày 18/6/1919.  Nguyễn Ái Quốc đã dụng sử văn chương rất chi là Nghệ Tĩnh: “Chúng tôi xin mạn phép (chúng tôi nhấn mạnh-HVT) gửi đến Ngài, kèm theo Bản yêu sách của nhân dân An ”(2). 
Nói như thế để thấy, hiểu đúng vị thế của Hoa Kỳ, liên hệ với Hoa Kỳ là một trong những suy nghĩ đầu tiên; nếu không muốn nói là Thứ Nhất, của Nguyễn Ái Quốc. Tôi cũng đặc biệt nhấn mạnh rằng, những dòng chữ cuối cùng mà Bác Hồ đã viết là lá thư gửi tổng thống Mỹ Nixon, đề ngày 25/8/1969(3) - một tuần trước khi Người đến với cõi vĩnh hằng!

Chúng tôi không có nhiều tư liệu về những năm tháng đầu tiên mà người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành sống xa Tổ Quốc. Nhưng chúng tôi biết khá chắc chắn rằng chốn đến rồi, ở lại khá lâu của Người  là thành phố Boston, nơi khởi đầu của cuộc Cách mạng Mỹ rạng sáng ngày 17/12/1773. Boston là nơi đã sinh ra ba vị tổng thống: John Adams( TT thứ 2); J.Q. Adams(TT thứ 6) và J.F. Kennedy(TT thứ 35)(4).
Lịch sử dường như luôn biết cách “sắp xếp” cho những cuộc “hội ngộ” kỳ tuyệt của những nhân tài ở những vùng đất mà mọi sự lý giải theo logique thông thường đều trở nên không thoả đáng. Nguyễn Tất Thành đã đến Boston(1911) và trở thành Nguyễn Ái Quốc khi anh đến Paris năm 1917.

2.
Bài viết đầu tiên giới thiệu về nước Mỹ của Nguyễn Ái Quốc là bài Lịch sử Cách mệnh Mỹ (năm 1925) (5). Trong bài này, Nguyễn Ái Quốc đã dịch thật sát nghĩa của Tuyên Ngôn Độc Lập: “Giời sinh ra ai cũng có quyền tự do, quyền giữ tính mệnh của mình (6). Thật là khác khi Người trích dẫn câu này trong Tuyên Ngôn Độc Lập của nước VNDCCH: “Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng...” (Every men was created equal) Chính xác là được sáng tạo ra bởi Đấng Sáng Tạo (was created/ by The Creation). Tôi tin rằng định đề bất hủ mà Thomas Jefferson đã nghiền ngẫm luôn có trong tâm trí của Nguyễn Ái Quốc hàng chục năm trời. Tình cảm mà Người dành cho nhân dân Mỹ xuyên suốt, dài lâu trong suy nghĩ của Người. Bằng trực giác của một thiên tài, Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh hiểu rõ Mỹ là một cường quốc có vai trò cực kỳ quan trọng trong thế giới đương đại.

Điều này được chứng minh rất rõ khi ta đọc T.4, bức thư gửi TT Mỹ Truman đề ngày 17/10/1945. Đây là thời điểm nước Việt Nam mới đang đứng trước muôn vàn khó khăn, thử thách; 45 ngày sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời. Nhưng một mối liên hệ với Mỹ là cần thiết. Đó cũng là cách nhìn đúng của một vĩ nhân. Hồ Chủ tịch đã khẳng định dứt khoát với TT Mỹ rằng, “Về mặt pháp lý thì giữa Pháp và Việt không còn tồn tại một bổn phận nào nữa” (7). Hồ Chủ tịch đòi hỏi Hoa Kỳ phải có một trách nhiệm rõ ràng đối với Việt Nam-một nước đã cùng đồng minh đánh bại phát xít Nhật trong những năm chiến tranh thế giới thứ hai.

Quan hệ giữa Việt Minh với Mỹ là một quan hệ khá chặt chẽ và hiệu quả. Mỹ đã cử một nhóm sĩ quan và nhân viên của OSS (tiền thân của CIA) đến giúp Việt Minh chống Nhật. Neil Sheehan, trong cuốn sách nổi tiếng của mình nói rằng chính phủ Mỹ đã viện trợ cho Việt Minh phần lớn vũ khí các loại để trang bị cho hơn năm ngàn chiến sĩ của ông Giáp (8). Về mặt số liệu, chưa thể khẳng định con số trên là đáng tin cậy hoàn toàn nhưng sự viện trợ của Mỹ là chắc chắn có thật. Trong thư gửi trung uý Phen, Hồ Chí Minh viết: “Tôi cảm thấy áy náy khi những người bạn Mỹ phải rời chúng tôi quá nhanh. Việc ra đi của họ khỏi đất nước này có nghĩa là mối quan hệ giữa ông và chúng tôi sẽ khó khăn hơn. Tôi trông chờ ngày hạnh phúc (chúng tôi nhấn mạnh-HVT) được gặp ông và những người bạn Mỹ của chúng ta ở Đông Dương hay trên đất Mỹ(9).  Hai năm sau, trong lá thư gửi Việt Mỹ ái hữu hội đề ngày 2/9/1947, Hồ Chủ tịch nhắc lại: “Chúng ta không bao giờ quên sự hợp tác thân ái của các bạn người Mỹ hồi chúng ta du kích chống Nhật, và chúng ta mong rằng sự hợp tác đó được tiếp tục”(10).

Không hề ngẫu nhiên khi Hồ chủ tịch chọn ngày gửi thư là ngày 2/9. Gần 50 năm sau, TT Bil Clinton chọn ngày 3/2 để tuyên bố huỷ bỏ lệnh cấm vận đối với Việt . Trước đó, Hồ Chí Minh đã dự cảm rất rõ rằng quan hệ Việt-Mỹ sắp tới sẽ khó khăn. Tại sao lịch sử đã rẽ vào một khúc quanh để đưa đến xung đột rồi, chiến tranh giữa hai nước? Có không ít những nguyên nhân nhưng chắc rằng một trong những nguyên nhân quan trọng, đó là rất nhiều người đã không hiểu Hồ Chủ tịch.

3. Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm rất nhiều về chính phủ Mỹ nói riêng và nhân dân Mỹ nói chung. Chỉ trong vòng 4 tháng của thời gian kháng chiến chống Pháp đang diễn ra quyết liệt, Người đã viết một loạt bài về Mỹ: Quyền tự do của Mỹ (23/10/1951); Văn hoá Mỹ (31/10/1951); Xã hội văn hoá Mỹ (5/11/1951); Thanh niên Mỹ chống chiến tranh (9/11/1951); Ku-Klux-Klan (14/11/1951); Tinh thần quân đội Mỹ (3/1/1952); Ô hô, tinh thần lính Mỹ (12/1/1952)(11).

Đây là thời điểm cuộc chiến tranh Triều Tiên đang diễn ra nóng bỏng nhất và chắc hẳn khi viết loạt bại trên, Hồ chủ tịch đã dự cảm rất rõ mưu đồ của Mỹ đối với Việt ? Cần phải nhấn mạnh là ngay từ năm 1924, Nguyễn Ái Quốc đã viết về tổ chức phân biệt chủng tộc Ku-Klux-Klan(12).
Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ để làm nổi bật vấn đề bằng cách giản dị nhất của Hồ Chủ tịch là điều khó ai có thể làm được. Chẳng hạn như: Mỹ mà không đẹp(13); Hoà bình kiểu Mỹ tức là binh hoạ (14); Do you understand, Zoon?(15); Một triệu tín đồ, một vạn phụ nữ, năm nghìn trí thức và một bé gái Hoa Kỳ(16); Đại tướng Vét mỡ lợn(17) Tổng thống Ken nói chuyện ở một trường đại học Mỹ, 6000 chữ mà ông lặp đi lặp lại từ Hoà bình 92 lần...(18)

4. Cuộc chiến tranh Việt là một nỗi đau bi thảm cho cả hai dân tộc. Chính vì quan niệm như vậy nên ngay sau khi Mỹ phát động chiến lược chiến tranh cục bộ, ngày 1/1/1966, Hồ chủ tịch đã viết lời chúc đầu năm mới gửi nhân dân Mỹ: “Nhân dân Việt Nam rất quý trọng tình hữu nghị với nhân dân Mỹ vĩ đại đang tiếp tục truyền thống của Hoa Thịnh Đốn và Lin Côn đấu tranh cho độc lập và dân chủ”(19). Quan điểm rõ ràng của Hồ chủ tịch đối với nhân dân Mỹ không phải bắt đầu khi chiến tranh bùng nổ mà đã có từ lâu rồi. 10 năm trước, Người đã viết thư thăm hỏi phụ nữ Mỹ: “Nhân ngày phụ nữ Quốc tế 8/3, chúng tôi xin gửi đến chị em (phụ nữ Hoa Kỳ) lời chào hữu nghị” (20). Có lẽ chúng ta sẽ khó hiểu hết được tư duy và tình cảm của một thiên tài. Đọc những dòng chữ cuối cùng của Người- Thư gửi tổng thống Mỹ Nixon, ta hoàn toàn bất ngờ khi thấy Bác dừng cụm từ Vấn đề Việt đến ba lần. Hoá giải nỗi đau của một cuộc chiến tranh dài nhất và đau thương nhất của nước Mỹ bằng hai chữ vấn đề là cách nói chỉ có ở những vĩ nhân.

Cũng cần thiết phải khẳng định rằng, trước khi người Mỹ loay hoay tìm cách  để thoát ra khỏi cuộc chiến Việt thì Hồ chủ tịch đã tìm một “Giải pháp danh dự duy nhất cho họ (21). Lối thoát “trong danh dự” cho người Mỹ được Hồ chủ tịch đề cập vào ngày 31/10/1966, trong buổi trả lời phỏng vấn của nhà báo Pháp E. A. De la Viguyrie. Một năm sau, GS sử học H. Kissinger viết cuốn sách nổi tiếng với cụm từ “sau Việt ”(The World after . The Future of the Foreign Policy of ). H. Kissinger bước vào Nhà Trắng với ba từ “sau VN”, trở thành cố vấn an ninh quốc gia rồi, ngoại trưởng Hoa Kỳ. Hồ chủ tịch đã nhìn, thấy thắng lợi trước tất cả mọi người nhưng thật tiếc là ngày vinh quang ấy chỉ đến sau khi Người đã đi xa.
                                                           
Trong bài diễn văn trước sinh viên Đại học Quốc gia Hà Nội, tháng 11/2000, TT Mỹ Bill Clinton nói rằng, Việt Nam và Hoa Kỳ có rất nhiều điểm chung như: cả hai dân tộc đều trẻ(65% dân số dưới 35 tuổi); đều lập nước từ thân phận thuộc địa; đều hình thành dân tộc thông qua sự dịch chuyển(nam tiến và tây tiến); đều có câu mở đầu của Tuyên Ngôn Độc Lập giống nhau... Có lẽ, Hồ Chí Minh đã là người rất hiểu những điều ấy...?
Đọc, hiểu, viết về Hồ Chủ tịch bao giờ cũng là một điều rất đỗi khó khăn.
Nghĩ về Hồ Chí Minh, trong tôi là hình ảnh của dãy Trường Sơn ngút ngàn thẳm sâu của hiểu biết. Nơi ấy, có con đường Hồ Chí Minh chảy dài suốt vận mệnh của dân tộc trong hàng chục năm kháng chiến vĩ đại, chảy xuyên qua Thời đại và rực chảy tới tương lai.
Huế, 15/4/2005
H.V.T
(nguồn: TCSH số 195 - 05 - 2005)

 



-------------------
 (1) T. 1; tr. 437
 (2) T1, tr. 437
 (3)T.12, tr. 488-489
(4) An ninh Cuối tháng, tháng 7/2003
 (5)T. 2; tr. 270
 (6) T. 2; tr. 270
 (7) T.4, tr. 52
(8) Neil Sheehan, Sự lừa dối hào nhoáng, Nxb Công an Nhân dân, H. 2003, tr.205
 (9) T.3, tr. 550
 (10) T.5, tr. 211
 (11) T6(1950-1952)
 (12) T.1, tr.336
 (13) T.11, tr. 267
 (14) T.11
(15) Zoon tức tổng thống Mỹ L.B. Johnson(1963-1969); T. 12, tr. 10
 (16) T.12
(17) Tức Westmoreland,T.12, tr. 359
 (18) T. 11
 (19) T. 12, tr.3
 (20) T.11, tr. 213
 (21) T.12, tr. 130

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Nguyễn Khắc Phê quê ở Hương Sơn, Hà Tĩnh. Anh xuất thân trong một gia đình trí thức. Bố anh từng đậu Hoàng Giáp năm 19 tuổi. Các anh trai đều là bác sĩ, giáo sư, tiến sĩ nổi tiếng như Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Khắc Dương, Nguyễn Khắc Phi... Có người nói vui “Nguyễn Khắc Phê con nhà quan tính nhà lính”.

  • VĂN CẦM HẢI(Đọc “Ngôi nhà vắng giữa bến sông”, Tập truyện ngắn của Nguyễn Kiên - Nxb Hội Nhà văn, 2004)

  • NGUYỄN QUANG SÁNGMấy năm gần đây, dân ta đi nước ngoài càng ngày càng nhiều, đi hội nghị quốc tế, đi học, đi làm ăn, đi chơi, việc xuất ngoại đã trở nên bình thường. Đi đâu? Đi Mỹ, đi Pháp, đi Trung Quốc, Đài Loan, Singapore, Hàn Quốc... Nhà văn Văn Cầm Hải cũng đi, chuyến đi này của anh, anh không đi những nơi tôi kể trên, anh đi Tây Tạng, rất lạ đối với tôi.

  • HÀ KHÁNH LINHDân tộc ta có hơn bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước, đã xảy ra nhiều cuộc nội loạn ngoại xâm, nhiều thế hệ người Việt Nam đã cầm vũ khí ra trận giết giặc cứu nước, nhưng mãi đến cuối thế kỷ 20 những chàng trai nước Việt mới phải đi giữ nước từ xa, mới đi giữ nước mà mang trong lòng nỗi nhớ nước như tứ thơ của Phạm Sĩ Sáu.

  • LÊ VĂN THÊSau sáu năm (kể từ 2002) nhà văn Cao Hạnh được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam, (cuối năm 2008); Hội Văn học nghệ thuật Quảng Trị mới có thêm một nhà văn được kết nạp. Đó là Văn Xương.

  • NGÔ MINHTrong đợt đi Trại viết ở Khu du lịch nước nóng Thanh Tân, anh em văn nghệ chúng tôi được huyện Phong Điền cho đi dạo phá Tam Giang một ngày. Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Thế là người dẫn đường. Anh dân sở tại, thuộc lòng từng tấc đất cổ xưa của huyện.

  • PHẠM PHÚ PHONG…Làng em đây, núi rừng Trung Việt cũng là đây/Xưa kia đã hùng dũng đánh Tây/Giờ lại hiên ngang xây thành chống Mỹ/Đường Trường Sơn là đường chân lý/Đã cùng quê em kết nghĩa hẹn hò… (Quê em, 1971)

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGKể từ tập thơ đầu tay (Phía nắng lên in năm 1985), Huyền thoại Cửa Tùng (*) là tập thơ thứ mười (và là tập sách thứ 17) của Ngô Minh đã ra mắt công chúng. Dù nghề làm báo có chi phối đôi chút thì giờ của anh, có thể nói chắc rằng Ngô Minh đã đi với thơ gần chẵn hai mươi năm, và thực sự đã trở thành người bạn cố tri của thơ, giữa lúc mà những đồng nghiệp khác của anh hoặc do quá nghèo đói, hoặc do đã giàu có lên, đều đã từ giã “nghề” làm thơ.

  • Võ Quê được nhiều người biết đến khi anh 19 tuổi với phong trào xuống đường của học sinh, sinh viên các đô thị miền Nam (1966). Lúc đó, anh ở trong Ban cán sự Sinh viên, học sinh Huế. Võ Quê hoạt động hết sức nhiệt tình, năng nổ bất chấp nguy hiểm với lòng yêu nước nồng nàn và niềm tin sắt đá vào chính nghĩa.

  • PHẠM PHÚ PHONGThỉnh thoảng có thấy thơ Đinh Lăng xuất hiện trên các báo và tạp chí. Một chút Hoang tưởng mùa đông, một Chút tình với Huế, một chuyến Về lại miền quê, một lần Đối diện với nỗi buồn, hoặc cảm xúc trước một Chiếc lá rụng về đêm hay một Sớm mai thức dậy... Với một giọng điệu chân thành, giản đơn đôi khi đến mức thật thà, nhưng dễ ghi lại ấn tượng trong lòng người đọc.

  • ĐẶNG TIẾNNhà xuất bản Trẻ, phối hợp với Công ty Văn hoá Phương Nam trong 2002 đã nhẩn nha ấn hành Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường, trọn bộ bốn cuốn. Sách in đẹp, trên giấy láng, trình bày trang nhã, bìa cứng, đựng trong hộp giấy cứng.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 244 tháng 6-2009)Mến tặng các nhà văn Tô Nhuận Vỹ, Khánh Phương, Trần Thị Trường, cháuDiệu Linh, và những người bạn khác,lớn lên trong những hoàn cảnh khác.

  • NGUYỄN THỤY KHANhà thơ Quang Dũng đã tạ thế tròn 15 năm. Người lính Tây Tiến tài hoa xưa ấy chẳng những để lại cho cuộc đời bao bài thơ hay với nhịp thơ, thi ảnh rất lạ như "Tây Tiến", "Mắt người Sơn Tây"... và bao nhiêu áng văn xuôi ấn tượng, mà còn là một họa sĩ nghiệp dư với màu xanh biểu hiện trong từng khung vải. Nhưng có lẽ ngoài những đồng đội Tây Tiến của ông, ít ai ở đời lại có thể biết Quang Dũng từng viết bài hát khi cảm xúc trên đỉnh Ba Vì - quả núi như chính tầm vóc của ông trong thi ca Việt Nam hiện đại. Bài hát duy nhất này của Quang Dũng được đặt tên là "Ba Vì mờ cao".

  • HOÀNG KIM DUNG      (Đọc trường ca Lửa mùa hong áo của Lê Thị Mây)Nhà thơ Lê Thị Mây đã có nhiều tập thơ được xuất bản như: Những mùa trăng mong chờ, Dịu dàng, Tặng riêng một người, Giấc mơ thiếu phụ, Du ca cây lựu tình, Khúc hát buổi tối, v.v... Chị còn viết văn xuôi với các tập  truyện: Trăng trên cát, Bìa cây gió thắm, Huyết ngọc, Phố còn hoa cưới v.v...Nhưng say mê tâm huyết nhất với chị vẫn là thơ. Gần đây tập trường ca Lửa mùa hong áo của nhà thơ Lê Thị Mây đã được nhà xuất bản Quân đội nhân dân ấn hành. (quý IV. 2003)

  • PHẠM PHÚ PHONGTrước khi có Hoa nắng hoa mưa (NXB Thanh Niên, 2001), Hà Huy Hoàng đã có tập Một nắng hai sương (NXB Văn Nghệ TP Hồ Chí minh, 1998) và hai tập in chung là Một khúc sông Trà (NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh) và Buồn qua bóng đuổi (NXB Văn hoá Dân tộc, 2000). Đã có thơ đăng và giới thiệu trên các báo Văn nghệ Trẻ, Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, Lao động, Người lao động, các tập san, tạp chí Thời văn, Tiểu thuyết thứ bảy, Cẩm thành hoặc đăng trong các tuyển thơ như Hạ trong thi ca (1994), Lục bát tình (1997), Thời áo trắng (1997), Ơn thầy (1997), Lục bát xuân ca (1999)...

  • Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937. Quê ở Triệu Long, Triệu Hải, Quảng Trị. Năm 1960, tốt nghiệp khóa I, ban Việt Hán, Trường đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, nhận bằng cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế. Năm 1960 - 1966, dạy trường Quốc Học Huế. Từng tham gia phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mỹ - ngụy đòi độc lập thống nhất Tổ quốc. Năm 1966 - 1975, nhà văn thoát li lên chiến khu, hoạt động ở chiến trường Trị Thiên. Sau khi nước nhà thống nhất, từng là Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt.

  • ANH DŨNGLTS:  Kết hợp tin học với Hán Nôm là việc làm khó, càng khó hơn đối với Phan Anh Dũng - một người bị khuyết tật khiếm thính do tai nạn từ thuở còn bé thơ. Bằng nghị lực và trí tuệ, anh đã theo học, tốt nghiệp cử nhân vật lý lý thuyết trường Đại học Khoa học Huế và thành công trong việc nghiên cứu xây dựng hoàn chỉnh bộ Phần mềm Hán Nôm độc lập, được giải thưởng trong cuộc thi trí tuệ Việt Nam năm 2001.Sông Hương xin giới thiệu anh với tư cách là một công tác viên mới.

  • SƠN TÙNGLTS: Trong quá trình sưu tầm, tuyển chọn bài cho tập thơ Dạ thưa Xứ Huế - một công trình thơ Huế thế kỷ XX, chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các nhà thơ lớn đương thời khắp cả nước đều tới Huế và đều có cảm tác thơ. Điều này, khiến chúng tôi liên tưởng đến Bác Hồ. Bác không những là Anh hùng giải phóng dân tộc, là danh nhân văn hoá thế giới mà còn là một nhà thơ lớn. Các nhà thơ lớn thường bộc lộ năng khiếu của mình rất sớm, thậm chí từ khi còn thơ ấu. Vậy, từ thời niên thiếu (Thời niên thiếu của Bác Hồ phần lớn là ở Huế) Bác Hồ có làm thơ không?Những thắc mắc của chúng tôi được nhà văn Sơn Tùng - Một chuyên gia về Bác Hồ - khẳng định là có và ông đã kể lại việc đó bằng “ngôn ngữ sự kiện” với những nhân chứng, vật chứng lịch sử đầy sức thuyết phục.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊAnh Hoài Nguyên, người bạn chiến đấu của nhà văn Thái Vũ (tức Bùi Quang Đoài) từ thời kháng chiến chống Pháp, vui vẻ gọi điện thoại cho tôi: “Thái Vũ vừa in xong TUYỂN TẬP đó!...” Nhà văn Thái Vũ từng được bạn đọc biết đến với những bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ như “Cờ nghĩa Ba Đình” (2 tập - 1100 trang), bộ ba “Biến động - Giặc Chày Vôi”, “Thất thủ kinh đô Huế 1885”, “Những ngày Cần Vương” (1200 trang), “Thành Thái, người điên đầu thế kỷ” (350 trang), “Trần Hưng Đạo - Thế trận những dòng sông” (300 trang), “Tình sử Mỵ Châu” (300 trang)... Toàn những sách dày cộp, không biết ông làm “tuyển tập” bằng cách nào?

  • MINH QUANG                Trời tròn lưng bánh tét                Đất vuông lòng bánh chưng                Dân nghèo thương ngày Tết                Gói đất trời rưng rưng...