Chủ tịch Hồ Chí Minh và nước Mỹ

10:00 05/03/2009
HÀ VĂN THỊNHTrong lịch sử của loài người, những vĩ nhân có tầm vóc và sự nghiệp phi thường chỉ có khoảng vài chục phần tỷ. Nhưng có lẽ rất chắc chắn rằng sự bí ẩn của những nhân cách tuyệt vời ấy gấp nhiều lần hơn tất cả những con người đang sống trên trái đất này. Tôi đã rất nhiều lần đọc Hồ Chí Minh Toàn tập, nhưng mỗi lần đều trăn trở bởi những suy tư không thể hiểu hết về Người.

Con người, sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh dường như là sự kết tinh, thăng hoa của mọi điều đẹp đẽ nhất của dân tộc Việt . Đến với Người, mọi sự khám phá gần như bất lực; mọi sự hiểu biết phải bối rối, vụng về... Chính vì lẽ này, tôi chỉ dám trình bày một vấn đề thật nhỏ: Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nghĩ, hiểu về nước Mỹ như thế nào?                          

1. Trong Hồ Chí Minh toàn tập, những nhà tuyển chọn đã sai khi để bài viết Tâm địa thực dân là thứ nhất, bài đầu tiên trong sự nghiệp viết lách và thể hiện tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bài đó không thể viết trước ngày 27/6/1919(1). Trong khi ấy, có một bài viết trước đấy rất lâu lại để sau; bài Thư gửi Tổng thống Mỹ đề ngày 18/6/1919.  Nguyễn Ái Quốc đã dụng sử văn chương rất chi là Nghệ Tĩnh: “Chúng tôi xin mạn phép (chúng tôi nhấn mạnh-HVT) gửi đến Ngài, kèm theo Bản yêu sách của nhân dân An ”(2). 
Nói như thế để thấy, hiểu đúng vị thế của Hoa Kỳ, liên hệ với Hoa Kỳ là một trong những suy nghĩ đầu tiên; nếu không muốn nói là Thứ Nhất, của Nguyễn Ái Quốc. Tôi cũng đặc biệt nhấn mạnh rằng, những dòng chữ cuối cùng mà Bác Hồ đã viết là lá thư gửi tổng thống Mỹ Nixon, đề ngày 25/8/1969(3) - một tuần trước khi Người đến với cõi vĩnh hằng!

Chúng tôi không có nhiều tư liệu về những năm tháng đầu tiên mà người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành sống xa Tổ Quốc. Nhưng chúng tôi biết khá chắc chắn rằng chốn đến rồi, ở lại khá lâu của Người  là thành phố Boston, nơi khởi đầu của cuộc Cách mạng Mỹ rạng sáng ngày 17/12/1773. Boston là nơi đã sinh ra ba vị tổng thống: John Adams( TT thứ 2); J.Q. Adams(TT thứ 6) và J.F. Kennedy(TT thứ 35)(4).
Lịch sử dường như luôn biết cách “sắp xếp” cho những cuộc “hội ngộ” kỳ tuyệt của những nhân tài ở những vùng đất mà mọi sự lý giải theo logique thông thường đều trở nên không thoả đáng. Nguyễn Tất Thành đã đến Boston(1911) và trở thành Nguyễn Ái Quốc khi anh đến Paris năm 1917.

2.
Bài viết đầu tiên giới thiệu về nước Mỹ của Nguyễn Ái Quốc là bài Lịch sử Cách mệnh Mỹ (năm 1925) (5). Trong bài này, Nguyễn Ái Quốc đã dịch thật sát nghĩa của Tuyên Ngôn Độc Lập: “Giời sinh ra ai cũng có quyền tự do, quyền giữ tính mệnh của mình (6). Thật là khác khi Người trích dẫn câu này trong Tuyên Ngôn Độc Lập của nước VNDCCH: “Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng...” (Every men was created equal) Chính xác là được sáng tạo ra bởi Đấng Sáng Tạo (was created/ by The Creation). Tôi tin rằng định đề bất hủ mà Thomas Jefferson đã nghiền ngẫm luôn có trong tâm trí của Nguyễn Ái Quốc hàng chục năm trời. Tình cảm mà Người dành cho nhân dân Mỹ xuyên suốt, dài lâu trong suy nghĩ của Người. Bằng trực giác của một thiên tài, Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh hiểu rõ Mỹ là một cường quốc có vai trò cực kỳ quan trọng trong thế giới đương đại.

Điều này được chứng minh rất rõ khi ta đọc T.4, bức thư gửi TT Mỹ Truman đề ngày 17/10/1945. Đây là thời điểm nước Việt Nam mới đang đứng trước muôn vàn khó khăn, thử thách; 45 ngày sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời. Nhưng một mối liên hệ với Mỹ là cần thiết. Đó cũng là cách nhìn đúng của một vĩ nhân. Hồ Chủ tịch đã khẳng định dứt khoát với TT Mỹ rằng, “Về mặt pháp lý thì giữa Pháp và Việt không còn tồn tại một bổn phận nào nữa” (7). Hồ Chủ tịch đòi hỏi Hoa Kỳ phải có một trách nhiệm rõ ràng đối với Việt Nam-một nước đã cùng đồng minh đánh bại phát xít Nhật trong những năm chiến tranh thế giới thứ hai.

Quan hệ giữa Việt Minh với Mỹ là một quan hệ khá chặt chẽ và hiệu quả. Mỹ đã cử một nhóm sĩ quan và nhân viên của OSS (tiền thân của CIA) đến giúp Việt Minh chống Nhật. Neil Sheehan, trong cuốn sách nổi tiếng của mình nói rằng chính phủ Mỹ đã viện trợ cho Việt Minh phần lớn vũ khí các loại để trang bị cho hơn năm ngàn chiến sĩ của ông Giáp (8). Về mặt số liệu, chưa thể khẳng định con số trên là đáng tin cậy hoàn toàn nhưng sự viện trợ của Mỹ là chắc chắn có thật. Trong thư gửi trung uý Phen, Hồ Chí Minh viết: “Tôi cảm thấy áy náy khi những người bạn Mỹ phải rời chúng tôi quá nhanh. Việc ra đi của họ khỏi đất nước này có nghĩa là mối quan hệ giữa ông và chúng tôi sẽ khó khăn hơn. Tôi trông chờ ngày hạnh phúc (chúng tôi nhấn mạnh-HVT) được gặp ông và những người bạn Mỹ của chúng ta ở Đông Dương hay trên đất Mỹ(9).  Hai năm sau, trong lá thư gửi Việt Mỹ ái hữu hội đề ngày 2/9/1947, Hồ Chủ tịch nhắc lại: “Chúng ta không bao giờ quên sự hợp tác thân ái của các bạn người Mỹ hồi chúng ta du kích chống Nhật, và chúng ta mong rằng sự hợp tác đó được tiếp tục”(10).

Không hề ngẫu nhiên khi Hồ chủ tịch chọn ngày gửi thư là ngày 2/9. Gần 50 năm sau, TT Bil Clinton chọn ngày 3/2 để tuyên bố huỷ bỏ lệnh cấm vận đối với Việt . Trước đó, Hồ Chí Minh đã dự cảm rất rõ rằng quan hệ Việt-Mỹ sắp tới sẽ khó khăn. Tại sao lịch sử đã rẽ vào một khúc quanh để đưa đến xung đột rồi, chiến tranh giữa hai nước? Có không ít những nguyên nhân nhưng chắc rằng một trong những nguyên nhân quan trọng, đó là rất nhiều người đã không hiểu Hồ Chủ tịch.

3. Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm rất nhiều về chính phủ Mỹ nói riêng và nhân dân Mỹ nói chung. Chỉ trong vòng 4 tháng của thời gian kháng chiến chống Pháp đang diễn ra quyết liệt, Người đã viết một loạt bài về Mỹ: Quyền tự do của Mỹ (23/10/1951); Văn hoá Mỹ (31/10/1951); Xã hội văn hoá Mỹ (5/11/1951); Thanh niên Mỹ chống chiến tranh (9/11/1951); Ku-Klux-Klan (14/11/1951); Tinh thần quân đội Mỹ (3/1/1952); Ô hô, tinh thần lính Mỹ (12/1/1952)(11).

Đây là thời điểm cuộc chiến tranh Triều Tiên đang diễn ra nóng bỏng nhất và chắc hẳn khi viết loạt bại trên, Hồ chủ tịch đã dự cảm rất rõ mưu đồ của Mỹ đối với Việt ? Cần phải nhấn mạnh là ngay từ năm 1924, Nguyễn Ái Quốc đã viết về tổ chức phân biệt chủng tộc Ku-Klux-Klan(12).
Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ để làm nổi bật vấn đề bằng cách giản dị nhất của Hồ Chủ tịch là điều khó ai có thể làm được. Chẳng hạn như: Mỹ mà không đẹp(13); Hoà bình kiểu Mỹ tức là binh hoạ (14); Do you understand, Zoon?(15); Một triệu tín đồ, một vạn phụ nữ, năm nghìn trí thức và một bé gái Hoa Kỳ(16); Đại tướng Vét mỡ lợn(17) Tổng thống Ken nói chuyện ở một trường đại học Mỹ, 6000 chữ mà ông lặp đi lặp lại từ Hoà bình 92 lần...(18)

4. Cuộc chiến tranh Việt là một nỗi đau bi thảm cho cả hai dân tộc. Chính vì quan niệm như vậy nên ngay sau khi Mỹ phát động chiến lược chiến tranh cục bộ, ngày 1/1/1966, Hồ chủ tịch đã viết lời chúc đầu năm mới gửi nhân dân Mỹ: “Nhân dân Việt Nam rất quý trọng tình hữu nghị với nhân dân Mỹ vĩ đại đang tiếp tục truyền thống của Hoa Thịnh Đốn và Lin Côn đấu tranh cho độc lập và dân chủ”(19). Quan điểm rõ ràng của Hồ chủ tịch đối với nhân dân Mỹ không phải bắt đầu khi chiến tranh bùng nổ mà đã có từ lâu rồi. 10 năm trước, Người đã viết thư thăm hỏi phụ nữ Mỹ: “Nhân ngày phụ nữ Quốc tế 8/3, chúng tôi xin gửi đến chị em (phụ nữ Hoa Kỳ) lời chào hữu nghị” (20). Có lẽ chúng ta sẽ khó hiểu hết được tư duy và tình cảm của một thiên tài. Đọc những dòng chữ cuối cùng của Người- Thư gửi tổng thống Mỹ Nixon, ta hoàn toàn bất ngờ khi thấy Bác dừng cụm từ Vấn đề Việt đến ba lần. Hoá giải nỗi đau của một cuộc chiến tranh dài nhất và đau thương nhất của nước Mỹ bằng hai chữ vấn đề là cách nói chỉ có ở những vĩ nhân.

Cũng cần thiết phải khẳng định rằng, trước khi người Mỹ loay hoay tìm cách  để thoát ra khỏi cuộc chiến Việt thì Hồ chủ tịch đã tìm một “Giải pháp danh dự duy nhất cho họ (21). Lối thoát “trong danh dự” cho người Mỹ được Hồ chủ tịch đề cập vào ngày 31/10/1966, trong buổi trả lời phỏng vấn của nhà báo Pháp E. A. De la Viguyrie. Một năm sau, GS sử học H. Kissinger viết cuốn sách nổi tiếng với cụm từ “sau Việt ”(The World after . The Future of the Foreign Policy of ). H. Kissinger bước vào Nhà Trắng với ba từ “sau VN”, trở thành cố vấn an ninh quốc gia rồi, ngoại trưởng Hoa Kỳ. Hồ chủ tịch đã nhìn, thấy thắng lợi trước tất cả mọi người nhưng thật tiếc là ngày vinh quang ấy chỉ đến sau khi Người đã đi xa.
                                                           
Trong bài diễn văn trước sinh viên Đại học Quốc gia Hà Nội, tháng 11/2000, TT Mỹ Bill Clinton nói rằng, Việt Nam và Hoa Kỳ có rất nhiều điểm chung như: cả hai dân tộc đều trẻ(65% dân số dưới 35 tuổi); đều lập nước từ thân phận thuộc địa; đều hình thành dân tộc thông qua sự dịch chuyển(nam tiến và tây tiến); đều có câu mở đầu của Tuyên Ngôn Độc Lập giống nhau... Có lẽ, Hồ Chí Minh đã là người rất hiểu những điều ấy...?
Đọc, hiểu, viết về Hồ Chủ tịch bao giờ cũng là một điều rất đỗi khó khăn.
Nghĩ về Hồ Chí Minh, trong tôi là hình ảnh của dãy Trường Sơn ngút ngàn thẳm sâu của hiểu biết. Nơi ấy, có con đường Hồ Chí Minh chảy dài suốt vận mệnh của dân tộc trong hàng chục năm kháng chiến vĩ đại, chảy xuyên qua Thời đại và rực chảy tới tương lai.
Huế, 15/4/2005
H.V.T
(nguồn: TCSH số 195 - 05 - 2005)

 



-------------------
 (1) T. 1; tr. 437
 (2) T1, tr. 437
 (3)T.12, tr. 488-489
(4) An ninh Cuối tháng, tháng 7/2003
 (5)T. 2; tr. 270
 (6) T. 2; tr. 270
 (7) T.4, tr. 52
(8) Neil Sheehan, Sự lừa dối hào nhoáng, Nxb Công an Nhân dân, H. 2003, tr.205
 (9) T.3, tr. 550
 (10) T.5, tr. 211
 (11) T6(1950-1952)
 (12) T.1, tr.336
 (13) T.11, tr. 267
 (14) T.11
(15) Zoon tức tổng thống Mỹ L.B. Johnson(1963-1969); T. 12, tr. 10
 (16) T.12
(17) Tức Westmoreland,T.12, tr. 359
 (18) T. 11
 (19) T. 12, tr.3
 (20) T.11, tr. 213
 (21) T.12, tr. 130

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LÝ HẠNHAi trong đời chẳng đã một lần làm thơ. Dù làm thơ để giải trí hay sẻ chia thì những trang thơ ấy cũng là tiếng hát của trái tim, là nơi dừng chân của tâm hồn.

  • LTS: Có một chuyện ít người biết là các nhà văn Tô Hoài, Xuân Diệu, Huy Cận không nhớ ngày sinh của mình. Xuân Diệu, con nhà Nho, thì biết mình sinh giờ Thìn, ngày Thìn, tháng Thìn, năm Thìn, nhưng không biết dương lịch ngày nào. Nhà văn Tô Hoài cũng vậy, nhưng nhớ Bà Cụ cho biết sinh ông đêm rằm Trung Thu. Sau này, sang Nga, bạn người Nga hỏi, mới tra ra ngày Tây là 27-9-1920. Do đó trên các tư liệu, thường thấy ghi ngày sinh: 07-9-1920, và nhà văn cũng không buồn đính chính. Nhân kỷ niệm 90 năm ngày sinh nhà văn Tô Hoài, Sông Hương nhận được bài viết của nhà văn Đặng Tiến cùng thông tin về ngày sinh Tô Hoài nói trên. Xin giới thiệu cùng bạn đọc.

  • HOÀNG DŨNGKhông phải ngẫu nhiên khi ta nói vũ trụ, thế giới thì vũ, giới là không gian, mà trụ, thế là thời gian. Ngay trong những khái niệm tưởng chỉ là không gian, cũng đã có thời gian quấn quýt ở đấy.

  • LTS: Trong các ngày 7-9/9/2010 sắp đến, Ủy ban Văn hóa Hội đồng Giám mục Việt Nam và Tòa Tổng Giám mục Giáo phận Huế sẽ tổ chức Hội thảo về thân thế và sự nghiệp của Léopold Cadière (1869-1955), Nhà nghiên cứu về Huế và Việt Nam học, chủ bút của tập san Bulletin des Amis du Vieux Hué (B.A.V.H), một trong số các tờ báo hay nhất ở Đông Dương thuở trước. Hội thảo sẽ có một số nội dung liên quan đến văn hóa Huế như Văn hóa Huế, Mỹ thuật Huế, Cổ vật Huế dưới con mắt của L. Cadière... Nhân dịp này, Tạp chí Sông Hương đăng bài viết của nhà nghiên cứu Hồ Vĩnh, chuyển tải vài nét về hoạt động văn hóa của Léopold Cadière. Xin giới thiệu cùng bạn đọc.S.H

  • NGUYỄN THỊ HÒA Không cần phải bàn cãi, Từ điển tiếng Huế của Tiến sĩ, Bác sĩ Bùi Minh Đức là một tác phẩm Từ điển. Một quyển từ điển về phương ngữ địa phương Huế mà dày dặn, công phu, với 2050 trang, thể hiện công sức nghiên cứu miệt mài của một vị bác sĩ - nghiệp dư với nghề ngôn ngữ, nhưng đầy nhiệt tình và khá chuyên nghiệp trong nghiên cứu.

  • Sinh ngày 6-2-41 tại Huế. Hy sinh ngày 11-10-68 tại vùng biên giới tỉnh Tây Ninh, nguyên quán làng Bát Tràng tỉnh Bắc Ninh. Học sinh cũ Trường Quốc Học, tốt nghiệp Đại học Sư phạm Ban Việt văn. Tên thật và bút hiệu công khai, chính thức: Trần Quang Long. Các bút hiệu khác: Thảo Nguyên, Chánh Sử, Trần Hoàng Phong.

  • TRẦN HỮU LỤCỞ tuổi 20, hành trình sáng tác của Nhóm Việt gắn liền với những biến cố lịch sử ở miền Nam (1965-1975). Những cây bút trẻ của Nhóm Việt đã bày tỏ một thái độ dấn thân ngày càng sâu sắc, vừa trên bình diện ý thức công dân, vừa trên bình diện ý thức nghệ sĩ.

  • PHONG LÊ(Kỷ niệm 100 năm ngày sinh Nguyễn Tuân 10-7-1910 – 28-7-1987)

  • NGUYÊN QUÂN Phía đằng sau những con chữ bình dị như một chốn quê nhà chưa bị ô nhiễm cơn đau phố bụi, một ngôi làng yên bình vẫn luôn hằng hiện trong mỗi hơi thở, mỗi bước gian truân của tác giả là sự chân thật đến nao lòng.

  • LÝ HOÀI THU Những câu thơ đầu tay của Hữu Thỉnh cất lên từ những cánh rừng Trường Sơn được anh gọi là “Tiếng hát trong rừng”. Anh viết về đồng đội, về cơn sốt rét rừng, về những trận bom và vết hằn xe xích, về mây, suối, dốc, thác Trường Sơn.

  • THÁI DOÃN HIỂU…Khi sự vong ân bội nghĩa của người đời đang diễn ra ở khắp đó đây thì Hoàng Trần Cương là người sống bằng ân sâu nghĩa cả. Với anh, ân nghĩa là một gánh nặng phải gánh. Anh nói về ân nghĩa như là một thứ trí nhớ của lương tri, một món nợ không bao giờ trả xong…

  • VŨ DUY THÔNG        (Thơ - Nghiêm Huyền Vũ, Nxb Trẻ 2000)Khác với bên ngoài, Nghiêm Huyền Vũ trong thơ là người trầm tư, cái trầm tư nhuốm vị triết học.Vây bọc quanh anh là không gian, thứ không gian cô liêu.

  • TRẦN QUỐC THỰCÍt người chịu đi tìm tiếng nói riêng khi đọc một tập thơ, một chặng thơ của một người. Qua từng chặng thơ, tiếng nói riêng ấy sẽ trở thành một cách thơ riêng biệt. Và đó là điều đáng mừng cho đội ngũ sáng tác.

  • NGUYỄN THANH TÚ          (Phác thảo chân dung nhà văn Nguyễn Bảo)

  • LGT: Cuốn tiển thuyết “Biết đâu địa ngục thiên đường” của nhà văn Nguyễn Khắc Phê vừa xuất bản được xem là tác phẩm thành công nhất của ông, cũng là cuốn tiểu thuyết viết kỹ lưỡng nhất, lâu nhất. Cuốn tiểu thuyết này hiện nay nằm trong danh sách những cuốn vào chung khảo cuộc thi tiểu thuyết của Hội Nhà văn Việt Nam. Sông Hương xin giới thiệu những ý kiến nhận định rất chân thành của Giáo sư Trần Đình Sử, nhà văn Ma Văn Kháng và nhà nghiên cứu phê bình Từ Sơn.

  • FAN ANHCon người khác con vật không chỉ ở đặc điểm con người có một bản ngã, một cái tôi luôn biến động, mấu chốt nằm ở chỗ, con người có thể có nhiều bản ngã khác nhau, tồn tại một cách âm thầm trong những thế giới mà nhiều khi ngay bản thân mỗi cá nhân chúng ta cũng không thể am tường hết.

  • VĂN CẦM HẢI(Nhân đọc “Giọng nói mơ hồ” - Nguyễn Hữu Hồng Minh. Nxb trẻ 1999)

  • ĐỖ NGỌC YÊNHồ Quý Ly là một nhân vật lịch sử có thật. Hơn nữa ông đã từng làm đến chức quan Thái sư dưới thời nhà Trần khoảng từ năm 1370 - 1400, và lập nên nhà Hồ từ năm 1400 - 1407.

  • Phỏng vấn nhà nghiên cứu Nguyễn Việt - chuyên viên Hiệp hội CLB UNESCO Việt Nam – nhân cuộc triển lãm thư pháp thơ “Nhật ký trong tù” của Bác Hồ tại Bảo tàng Hồ Chí Minh Thừa Thiên Huế 8-2000

  • LÊ HUY QUANGVào ngày 19/5/2010 này, cả nước ta sẽ tưng bừng Kỷ niệm 120 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân Văn hóa thế giới, nhà thơ Hồ Chí Minh, một người Việt Nam đẹp nhất.