Chủ tịch Hồ Chí Minh và một số vấn đề văn hóa văn nghệ

10:17 26/09/2023


NGUYỄN VĂN HẠNH

Ảnh: chinhphu.vn

Việc dành ưu tiên cho khái niệm tính nhân dân trong hệ thống quan điểm lý luận nghệ thuật và mỹ học của Chủ tịch Hồ Chí Minh chứng tỏ sự nhạy cảm và sự hiểu biết sâu sắc của Bác không chỉ về tính chất của cách mạng Việt Nam trong những điều kiện xã hội lịch sử nhất định, mà còn về bản chất của văn học nghệ thuật cách mạng.

Thực tế và thời gian ngày càng chứng tỏ sự giản dị và quan điểm "truyền thống" của Bác lại chính là sự sáng suốt, tính nguyên tắc và sự tinh tế trong cách xem xét các vấn đề văn hóa nghệ thuật.

Xem văn hóa văn nghệ là một hoạt động thực tiễn, một hoạt động mang tính nhân dân sâu sắc, đương nhiên Bác không quan niệm văn hóa văn nghệ là một hiện tượng tĩnh tại với những yêu cầu, những phẩm chất cố định. Sự phát triển của văn hóa văn nghệ gắn liền với sự phát triển của xã hội, của thực tiễn cách mạng, của trình độ dân trí và nhu cầu của nhân dân về văn hóa nghệ thuật. Điều này thể hiện rõ ở các luận điểm của Bác: "Xã hội thế nào, văn nghệ thế ấy" từ cái phổ biến ấy, cái nền ấy mà nâng cao lên, làm cho văn nghệ của ta "ngày càng phong phú về tư tưởng và nghệ thuật". Trong bài nói chuyện tại Đại hội II của Hội Nhà báo Việt Nam, Bác có nhắc lại với thái độ tán thành ý kiến của một phóng viên Liên Xô là khi sinh hoạt của nhân dân đã cao hơn, cần phải viết khác chứ không phải lúc nào cũng ngắn gọn, thiết thực; "Chớ viết khô khan quá. Phải viết cho văn chương. Vì ngày trước khác, còn bây giờ khác, sinh hoạt đã cao hơn, người ta thấy hay thấy lạ, thấy văn chương thì mới thích đọc".

Trong quan niệm của Bác về sự phát triển của văn hóa nghệ thuật, về mối quan hệ giữa nghệ thuật và nhân dân, thật ra có hai phương diện, hai quá trình gắn bó với nhau, tạo điều kiện cho nhau: nghệ thuật phải được nhân dân hiểu và nhân dân phải hiểu được nghệ thuật. Đó phải là quan điểm của cách mạng về nghệ thuật, quan điểm của người nghệ sĩ cách mạng sáng tạo ra tác phẩm và của quần chúng cách mạng tiếp nhận tác phẩm đó. Cả người sáng tạo và người tiếp nhận phải là chủ thể tích cực, chủ động, có ý thức đến với nhau, và cùng phấn đấu vươn tới những đỉnh cao giá trị. Câu nói của Lênin về mối quan hệ giữa nghệ thuật và nhân dân được Clara Xetkin dẫn lại mà gần đây giới nghiên cứu quan tâm tìm hiểu lại có lẽ cũng nên được nhận thức theo một tinh thần cách mạng và biện chứng như vậy,

Ngoài những vấn đề có ý nghĩa như nguyên tắc, như văn hóa nghệ thuật phải phục vụ nhân dân, phục vụ tổ quốc, văn hóa nghệ thuật là một mặt trận, nghệ sĩ là chiến sĩ trên mặt trận đó v.v... thông thường khi bàn về văn hóa nghệ thuật, Bác không trình bày các ý kiến của mình như là chân lý hoặc những yêu cầu bắt buộc, mà như là phương pháp suy nghĩ và hành động, như những kinh nghiệm và lời khuyên. Ngay khi nêu một vấn đề quan trọng như phổ biến và nâng cao, Bác cũng nói: "Nêu ra để các cô các chú thảo luận". Đối chiếu thơ xưa và thơ nay Bác nêu lên ý kiến về thơ nay mà mọi người đều biết:

Hiện đại thi trung ưng hữu thiết
Thi gia dã yếu hội xung phong

(Nay ở trong thơ nên có thép
Nhà thơ cũng phải biết xung phong)

Ở đây suy nghĩ về thơ được trình bày như một mong muốn, một lời khuyên. Không nên cường điệu ý kiến này thành quan điểm chỉ đạo, thành "tuyên ngôn" về thơ hiện đại nói chung. Một mặt, Bác không hề phủ nhận hoặc chê bai loại thơ xưa "yêu cảnh thiên nhiên đẹp", mà chỉ ghi nhận một thực tế, nói lên một nhận xét, mặt khác Bác không đòi hỏi rằng thơ nay phải là thơ "có thép", chỉ có thể là thơ "thép", hoặc đã là nhà thơ thì phải "xung phong". Đây lại thêm một bằng chứng về quan niệm rất uyển chuyển của Bác về văn nghệ, một quan niệm luôn luôn tôn trọng sự suy nghĩ của người khác, tôn trọng sự đa dạng, phong phú của nghệ thuật.

Một số nhà nghiên cứu đã nêu câu hỏi: Tại sao trong lý luận mác-xít về văn học nghệ thuật mấy mươi năm qua luôn luôn nhấn mạnh các vấn đề như tính đảng, phương pháp sáng tác, chủ nghĩa hiện thực, chủ nghĩa lãng mạn cách mạng, hiện thực xã hội chủ nghĩa... nhưng Bác lại hầu như không đề cập các khái niệm này trong các bài phát biểu của mình về văn học nghệ thuật.

Trước hết phải nói rằng ý kiến của Bác khá đủ để hướng dẫn nghệ sĩ đi trên con đường lớn của văn nghệ cách mạng và những ý kiến này đều được dễ dàng mọi người chấp nhận. Điều này cũng chứng tỏ rằng có thể có một cách nói khác, thông qua những khái niệm và phạm trù khác, để nói về những vấn đề then chốt và cần thiết nhất của văn hóa văn nghệ. Những nhà lý luận chuyên nghiệp không thể không suy nghĩ về thực tế này.

Cũng có thể với tư cách của một nhà chính trị, một nhà lãnh đạo Đảng, Bác không có điều kiện và cũng không muốn đi sâu vào những vấn đề chuyên môn, những vấn đề khoa học của lĩnh vực văn hóa văn nghệ. Trong những vấn đề đã nêu ở trên có vấn đề có thể nói dưới một dạng khác như vấn đề tính đảng, có những vấn đề không nhất thiết người lãnh đạo chính trị phải đề cập như vấn đề phương pháp sáng tác, vấn đề chủ nghĩa hiện thực, hiện thực xã hội chủ nghĩa. Cách nói uyển chuyển "dân dã" của Bác, cũng như sự "dừng lại" của Bác trước những vấn đề nghề nghiệp chuyên sâu như vậy - càng chứng tỏ Bác là một nhà lãnh đạo chính trị sáng suốt, hiểu rõ công việc của mình.

Bác viết văn, làm thơ nhiều, và có nhiều tác phẩm thơ văn xuất sắc. Nhưng tự mình, Bác không nhận mình là một nhà thơ, một nhà văn nghệ. Có lần Bác nói "Nếu quả thực tôi là một nhà thơ, hẳn tôi không thể sống mà không sáng tác... Còn tôi... tôi có thể sống thoải mái mà không cần phải làm thơ. Và trước khi ở tù, cũng như sau khi ra tù, tôi đã sống mà không làm thơ"(1). Một lần khác Bác lại nói về mình: "Tôi là cây bút tiểu phẩm, nhà chính luận, gọi tôi là người tuyên truyền tôi cũng không tranh cãi, nhà cách mạng chuyên nghiệp - là đúng nhất"(2). Không nên chỉ thấy ở đây thái độ khiêm tốn của một vĩ nhân. Bác đòi hỏi phải nhận thức chính xác về chuyên môn nghề nghiệp, Bác có những yêu cầu cao về thiên chức của người làm văn nghệ. Trong bài nói chuyện tại buổi bế mạc đại hội văn nghệ toàn quốc lần thứ hai, Bác phân biệt ở mình hai "địa vị": địa vị "một người yêu chuộng văn nghệ" và địa vị "một người chính trị". Trên "danh nghĩa một người yêu chuộng văn nghệ", Bác chúc mừng đại hội, nêu những nhận xét của mình về tình hình văn nghệ, trình bày những ý kiến về tình hình đất nước, cuộc sống của nhân dân. Rồi Bác kết thúc bài nói chuyện như sau: "Phần trước là tôi đứng về địa vị một người yêu chuộng văn nghệ mà nói. Bây giờ đứng về địa vị một người chính trị tôi xin hứa rằng Trung ương Đảng và Chính phủ sẽ cố gắng trong khả năng của mình, giúp đỡ văn nghệ tiến lên(3). Có bao nhiêu điều đáng cho chúng ta suy nghĩ từ thái độ đó, từ một cách tiếp cận như vậy đối với lĩnh vực văn hóa văn nghệ, đối với những người làm văn hóa văn nghệ, về cách lãnh đạo văn hóa văn nghệ, về quan hệ giữa lãnh tụ và nhân dân.

Trong văn hoá văn nghệ cũng như trong các lĩnh vực khác của công tác cách mạng, di sản của Bác để lại cho chúng ta, không chỉ gói gọn trong những quan điểm, tư tưởng của Bác về văn hóa văn nghệ, mà còn nằm trong phương pháp, trong thái độ tiếp cận, ứng xử của Bác đối với những vấn đề văn hoá văn nghệ, đối với trí thức văn nghệ sĩ.

Nhà thơ xô viết nổi tiếng Ôxip Mandenxtam trong lần gặp Bác vào cuối năm 1923 ở Liên Xô, lúc bấy giờ Bác mới hơn 30 tuổi, đã có một nhận xét đáng suy nghĩ: "Từ Nguyễn Ái Quốc đã tỏa một thứ văn hóa, không phải văn hóa Âu châu, mà có lẽ là một nền văn hoá tương lai"(4).

Cái gì ở Bác đã khiến cho một nhà thơ xô viết đầy tài năng này không trực tiếp nghĩ đến chủ nghĩa yêu nước, tinh thần đấu tranh cách mạng kiên cường hay tính tất thắng của một sự nghiệp giải phóng dân tộc, mà lại nghĩ đến văn hóa, đến một nền văn hóa tương lai? Ở người thanh niên Nguyễn Ái Quốc, nhà thơ không chỉ nhìn thấy lòng yêu nước và thái độ căm thù quân xâm lược, mà chính là một nhân cách lớn, một cách suy nghĩ mới mẻ, một nhãn quan văn hóa sâu rộng qua những lời tâm sự, những nhận xét, những câu trả lời chân tình, đặc sắc, đầy tự tin nhưng cũng hết sức tinh tế của Bác về đất nước và nhân dân, về bản thân và gia đình, về dân tộc mình và các dân tộc khác, về phong trào của Gandi, về lý luận của Khổng Tử, về Rousseau và Montesquieu, về "văn minh" của bọn cướp nước mà bao giờ Bác cũng nói đến với một thái độ phẫn nộ và đầy khinh bỉ... Với tư cách là một nhà thơ, có lẽ điều mà Mandenxtam cảm thấy đặc biệt hấp dẫn ở Bác, điều đã khiến cho nhà thơ nghĩ đến văn hoá, đến một nền văn hóa tương lai là ở chỗ này "dân tộc Việt Nam đáng yêu, một dân tộc lịch thiệp và độ lượng, rất ghét những gì thái quá. Dáng dấp của con người đang ngồi trước mặt tôi đây, đồng chí Nguyễn Ái Quốc, cũng đang tỏa ra một cái gì thật lịch thiệp và tế nhị"(5).

Nếu như văn hóa thể hiện trước hết trong quan hệ giữa người và người, nếu như văn hóa bắt đầu từ chỗ vượt ra khỏi "chủ nghĩa cá nhân và sự trói buộc của hoàn cảnh hạn hẹp để có thể đến với người khác, hiểu và quí trọng những cái khác mình - thì thái độ ghét những cái thái quá, sự độ lượng, lịch thiệp, tế nhị, quả là những biểu hiện rất đặc trưng của văn hóa.

Nhận xét của Mandenxtam về Bác là một nhận xét rất độc đáo, mà lại rất cơ bản và chính xác, nhà thơ thật sự là "có con mắt tinh đời". Không phải ngẫu nhiên mà nhiều nhà nghiên cứu về Bác đã rất tâm đắc với ý kiến này.

Có thể nói, trong những phát biểu về văn hóa văn nghệ, cũng như khi tiếp xúc với giới văn hóa văn nghệ, tham gia giải quyết những vấn đề cụ thể về văn hóa văn nghệ, Bác không chỉ đứng ở tư cách một nhà chính trị, một người yêu chuộng văn nghệ mà còn đứng ở tư cách một nhà văn hóa, với thái độ giúp đỡ đầy trách nhiệm, hiểu biết, chân tình, độ lượng, lịch thiệp và tế nhị.

Là một nhà chính trị, một nhà lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm chủ yếu phương diện chính trị của hoạt động văn hóa văn nghệ, những yêu cầu khách quan, yêu cầu chung của cách mạng, của nhân dân đối với hoạt động này. Nếu có nói đến chủ thể sáng tạo, Bác cũng chú ý trước tiên vấn đề lập trường quan điểm chính trị của nghệ sĩ. Nền văn nghệ mà Bác Hồ cổ vũ là hướng vào thực hiện những mục tiêu chung của cách mạng, một vũ khí tư tưởng, một công cụ giáo dục. Với một quan điểm chung như vậy về văn nghệ, nhất là nền văn nghệ này lại phát triển chủ yếu trong thời kỳ đấu tranh chính trị trong hoàn cảnh chiến tranh, Bác ít chú ý đến những nhân tố đặc thù của lĩnh vực này như tài năng, cá tính, tự do sáng tạo. Sự phong phú đa dạng mà Bác nói đến trước hết là sự phong phú đa dạng của thực tế khách quan, của nhu cầu nhân dân đối với văn hoá nghệ thuật, chứ chưa phải là sự phong phú đa dạng của chủ thể sáng tạo, của tài năng, của cá tính nghệ sĩ. Có cơ sở để nói rằng Bác nhấn mạnh chức năng giáo dục, chức năng miêu tả (phản ánh) của văn nghệ, mà chưa quan tâm nhiều đến chức năng nhận thức (và tự nhận thức) theo nghĩa chặt chẽ của nó, chức năng thm mỹ và hầu như không nói đến chức năng biu hiện (và tự biểu hiện) của văn nghệ. Khi cuộc sống chuyển trọng tâm từ đấu tranh chính trị sang xây dựng kinh tế và văn hóa, từ sinh hoạt không bình thường trong chiến tranh sang sinh hoạt bình thường trong hòa bình; khi văn nghệ có nhu cầu và có điều kiện phát huy sức mạnh riêng của nó, bộc lộ đầy đủ hơn bản chất của nó, thì những vấn đề trên đây càng trở nên đương nhiên và phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu.

N.V.H
(TCSH55/05&6-1993)

 

---------------------
(1), (2) Văn hoá nghệ thuật cũng là một mặt trận. - Sđd, trang 513-514.
(3) Về công tác văn hoá văn nghệ. - Sđd, trang 35.
(4), (5) Văn hoá nghệ thuật cũng là một mặt trận. - Sđd, trang 478.

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN MẠNH TIẾN

    [Diễn giải về phê bình hiện tượng học văn học Lê Tuyên]

  • NGUYỄN MẠNH TIẾN

    “Sự định cơ cấu đã trở nên cái phần cám dỗ nhất của phê bình”
                             Đ.L.V

  • NGUYỄN QUANG HUY

    Nỗi buồn sáng tạo dẫn đưa nghệ sĩ đi vào bề sâu cho tới khi nó tìm thấy trong vô thức mình cái nguyên tượng có khả năng bù đắp lại cao nhất sự tổn thất và què quặt của tinh thần hiện đại.
                                                           (C. G. Jung)

  • ROLAND BARTHES

    (Nguồn: Roland Barthes. Essais critiques. Seuil, 1964, tr. 246-251)

  • THÁI VŨ

    Thiệt tình khi cuốn Những ngày Cần Vương chưa ra mắt bạn đọc, tôi chưa muốn có ý kiến, vì cuốn Huế 1885 chỉ là phần đầu khi phản ánh một giai đoạn lịch sử mất nước do triều Nguyễn gây nên với bao nỗi đắng cay, đau xót của mỗi người dân Việt Nam ta lúc đó, đâu chỉ riêng gì của người dân xứ Huế - Bình Trị Thiên.

  • Nhà văn Nguyễn Mộng Giác vừa qua đời lúc 10 giờ 15 phút tối ngày 2 tháng 7 năm 2012. Tạp chí Sông Hương vừa nhận được bài viết của nhà phê bình Đặng Tiến, xin giới thiệu cùng bạn đọc, như một nén nhang tưởng niệm…

  • Ta sẽ khởi đầu bằng những gì xưa nay vẫn là nổi tiếng nhất của thơ Đinh Hùng, gần như đương nhiên được coi là đặc trưng Đinh Hùng nhất. Để từ đó thấy được nét độc đáo đầu tiên, cũng đồng thời là sự trớ trêu đầu tiên (cạm bẫy đầu tiên; bởi vì thơ Đinh Hùng là thơ của cạm bẫy trùng trùng tiếp nối; thơ ấy rất đáng sợ): nổi bật không hề là đặc trưng.

  • TÂM VĂN

    Hàn Phi tử - Pháp gia thời Chiến quốc viết rằng: “Văn hữu lại tuy loạn nhi hữu độc thiện chi dân, bất văn hữu dân loạn nhi hữu độc trị chi lại, cố minh chủ trị lại bất trị dân”.

  • VŨ XUÂN TRIỆU

    Là một cây bút có tên tuổi của văn đàn dân tộc tuy nhiên tác phẩm của Vũ Bằng lại gặp khá nhiều trắc trở trên con đường đến với bạn đọc. Mãi sau này khi nhà văn từng mang tiếng “dinh-tê” này được công nhận là một chiến sĩ công báo hoạt động trong nội thành, thì các tác phẩm của ông mới dần dần được công bố.

  • TRẦN ĐỘ
          (Trích)

    … Bây giờ ta mạnh dạn bước sang bàn một vấn đề còn khó khăn hơn: "Bản sắc dân tộc trong văn hoá Việt Nam là gì?" hay "Bản sắc văn hoá của dân tộc Việt Nam là gì?".

  • NHẬT CHIÊU

    Thơ Haiku của Nhật Bản là một phần tài sản trong kho tàng văn hóa Á Đông vĩ đại và giàu sang. Chúng ta là người thừa tự nền văn hóa ấy nhưng còn chưa khai thác di sản của nó đúng mức như nó xứng đáng. Nhiều thành quả và tinh hoa của nó còn chờ đợi chúng ta.

  • RAMAN SELDEN

    Những nhà văn và độc giả nữ luôn phải làm trái ngược với thói đời. Nhà triết học Aristotle tuyên bố rằng: “Đàn bà là đàn bà bởi một sự thiếu thốn nhất định về những phẩm chất”, và Thánh Thomas Aquinas tin rằng “phụ nữ là một người đàn ông không hoàn hảo”.

  • PHẠM XUÂN NGUYÊN

    Tiểu thuyết ngày nay đang đi tìm những câu trả lời cho những vấn đề chưa được giải quyết của thực tại, nhưng bản thân sự tìm kiếm tinh thần trong tiểu thuyết trước hết phụ thuộc vào chiều sâu của sự nhận thức các vấn đề đó, vào sự tỉnh táo của người nghệ sĩ khi đứng đối mặt với những mâu thuẫn của cuộc sống hiện thực.

  • LGT: Phong trào đô thị là một mũi giáp công chiến lược không thể tách rời trong cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược do Đảng lãnh đạo bắt đầu từ Hiệp định Genève ký kết (20 - 7 - 1954). Sẽ không có một cái nhìn đầy đủ và toàn diện lịch sử Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975 nếu không có một công trình nghiên cứu nghiêm túc về phong trào đấu tranh chống Mỹ tại các đô thị miền Nam nói chung, tại Huế – miền Trung nói riêng.

  • INRASARA

    1. Toàn cầu hóa là một hiện thực diễn ra trên phạm vi toàn thế giới, từ hai thập kỉ qua. Một hiện thực lồ lộ trước mắt ta, bên cạnh ta, ngay trong nhà và ở chính bản thân ta, dù ta là công dân ở đất nước tiên tiến hay dù ta chỉ là một thành phần thuộc sắc dân thiểu số cư trú vùng sâu vùng xa trong một đất nước đang phát triển chưa qua giai đoạn hiện đại hóa.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG Sau này lúc về già, Nguyễn Trãi đã có lần nhắc lại hoài bão lập chí thời trẻ của mình bằng một hình tượng đẹp lạ lùng, "nhìn ánh sáng, muốn học chim phượng ca hát mặt trời lên" (Lãm huy nghi học minh dương phượng).