Ảnh: nguoisaigon.vn
Nhân kỷ niệm 110 năm ngày sinh của Người, xin trân trọng giới thiệu đến bạn đọc bài viết của tác giả với tựa đề “Hồ Chí Minh con người bình thường và người cộng sản kiệt xuất” Xin cho phép tôi được mặc chiếc áo dài của người mẹ Việt Nam, người mẹ đã sinh ra những anh hùng của nhiều thời đại chống ngoại xâm để bảo vệ Tổ quốc thân yêu của mình.Và ngày nay có một người mẹ đã sinh ra thiên tài Hồ Chí Minh. Bà cũng đã mặc tà áo này. Hôm nay tôi mặc tà áo này không phải chưng cái cuả sang trọng của người Việt Nam tặng cho tôi, đây là sự ngưỡng mộ một sắc phục dân tộc, mà chưa có một sắc phục phụ nữ nào lại đẹp, có văn hóa về bề dày truyền thống về thanh lịch như chiếc áo dài Việt Nam. Từ Mỹ tôi sang Thái Lan và vào thành phố Hồ Chí Minh thấy ngỡ ngàng khi nhìn thấy nữ sinh các trường đều mặc áo dài - những chiếc áo dài tuyệt đẹp. Tôi như bị thôi miên cứ đứng nhìn ngây ngất những tà áo dài mềm mại trên thân hình rất đẹp của các nữ sinh. Trong khi đó có một cảm giác buồn tương phản đột nhiên nằm chiếm trong tôi một cảnh bất ngờ khi tôi thấy nhiều chị em khác cũng tại thành phố này mặc những bộ đồ mà những người phụ nữ Mỹ chúng tôi đã ném đi từ thập kỷ 60 sang thập kỷ 70 không giám mặc vì xấu hổ, khi ra Hà Nội tôi hiểu được bề dày nền văn minh sông Hồng, nhưng không giống như thành phố Hồ Chí Minh, phụ nữ ít mặc áo dài, phấn son, họ mặc quần áo giống như phụ nữ Băngkok và Philippines. Hồ Chí Minh là người mà tôi dành nhiều thời gian nhất trong đời nghiên cứu lịch sử của tôi, cố tìm hiểu cho được đích thực tính cách của người. Tôi thuộc thế hệ tuổi con cháu của Bác Hồ Chí Minh cho phép tôi được ca ngợi lời ca muộn mằn của người hậu thế. Tôi đã tự bỏ tiền túi ra để đi từ Mỹ sang Pháp và Liên Xô (cũ) những nơi mà Bác Hồ đã đặt chân tới đó, để tìm những di tích gốc về Hồ Chí Minh. Tôi đã ở Liên Xô (cũ) một thời tương đối lâu để nghiên cứu về Bác. Khi về Mỹ tôi lại đi từ New York đến các đảo của vùng Đông Bắc châu Mỹ nơi Bác Hồ đã đi tàu xuyên đại dương đến đó. Tôi quyết tâm đi tìm cho được lai lịch văn hóa Hồ Chí Minh mặc dù ngày đó người ta đã chưa thừa nhận Người là danh nhân văn hóa của thế kỷ. Qua nghiên cứu tôi thấy rằng: - Bác chọn việc bồi bàn trên tàu là để có điều kiện đi đến được nhiều nước. - Bác chọn việc làm ở khách sạn là nơi có điều kiện xúc được với nhiều chính khách. Thế nhưng người ta hiểu sai rằng Bác Hồ làm đủ nghề để kiếm sống là không đúng. Khi tôi đến Luân Đôn tìm hiểu và thấy Nguyễn Ái Quốc kết thân với một số đại văn hóa, các nghệ sĩ danh tiếng như Rô-manh, Đắc uyn, vua hề Sác -lô... Người ta đồn rằng cụ Hồ biết 26 thứ tiếng, nhưng theo kết quả tìm hiểu của tôi thì Người biết khá sành sỏi 12 thứ tiếng. Tôi xin ca ngợi lời ca đẹp nhất về Người, sau khi tôi đã đi đến những nơi có dấu chân Người đi qua, gặp lại những người đã biết về Người và đi đến kết luận rằng Hồ Chí Minh lúc còn trẻ là một thanh niên rất đẹp trai, cho nên hiện giờ tôi vẫn cứ mơ ước về Người. Vì vậy hôm nay tôi ngưỡng mộ về Người bằng cả đầu óc khoa học đồng thời bằng cả trái tim của một người con gái đã hậu thế. Khi tôi đã yêu Người và tôi kính Người ở góc độ khoa học thì tôi nghĩ ngay đến Tượng thần Tự Do ở quê hương tôi. Tôi là nhà sử học, tôi đã lật ra xem những trang ghi cảm tưởng của mọi chính khách khi họ đến tham quan và chiêm ngưỡng Tượng thần Tự Do và ca ngợi thần Tự Do, Nguyễn Tất Thành khi đến New York cũng đã đến chiêm ngưỡng Tượng thần Tự Do và mọi chính khách, sau khi đã đến tham quan thần Tự Do đều ghi cảm tưởng bằng những lời ca ngợi Ngôi sao tỏa sáng trên vòng Nguyệt quế là ánh sáng tự do... Duy chỉ có Nguyễn Tất Thành đến xem thần Tự Do nhưng nhìn xuống dưới chân tượng và ghi “Ánh sáng trên đầu thần Tự Do tỏa rộng khắp trời xanh, còn dưới chân Tượng thần Tự Do thì người da đen đang bị chà đạp. Bao giờ người da đen được bình đẳng với người da trắng? Bao giờ có sự bình đẳng giữa các dân tộc? Và bao giờ người phụ nữ được bình đẳng với nam giới?”. Duy nhất chỉ có Nguyễn Tất Thành nhìn xuống chân Tượng thần Tự Do và ghi lại những ý kiến trên. Nguyễn Tất Thành nhìn số phận con người không chiêm ngưỡng hào quang tỏa sáng từ bức Tượng thần Tự do. Chính vì thế mà hôm nay tôi đến đây tìm đến con người này. Hồ Chí Minh, để xem giữa lời nói và việc làm của Người có tương phản không? Hồ Chí Minh quả thật là con người nói và làm đi đôi. Tôi đã vào nhà của Người. Lục tìm của riêng của Người. Người không có của riêng. Thật rất lạ và hiếm thấy, chính sách nào khi cầm quyền đều ban hành sắc lệnh tôn trọng và bình đẳng cho phụ nữ nhưng khi sắc lệnh ký xong thì bản thân họ lại vào nhà thổ cho phép phát triển kỹ nghệ “đàn bà”. Thậm chí một vị Tổng thống có đến 3 - 4 vị tình nhân. Duy nhất chỉ có Nguyễn Tất thành đứng trước Tượng thần Tự Do ghi những đều trên khi mình còn lầm than, rồi khi mình làm Chủ tịch một nước và khi qua đời, trên giường Người vẫn vắng hơi ấm của đàn bà. Con người khi làm Chủ tịch nước 24 năm đến lúc qua đời trên giường không có hơi ấm của đàn bà. Hồ Chí Minh là một người cộng sản vĩ đại, là một siêu nhân, Người càng vĩ đại hơn ở chỗ Người là một con người bình thường sống hòa lẫn vào trong cuộc sống của xã hội chứ không phải siêu phàm. Tôi đọc nhiều tư liệu về Người và biết Người được nhiều phụ nữ yêu. Bà Larec theo đuổi Nguyễn Ái Quốc nhiều năm, trong những đêm đi họp chi bộ về, hai người đi bên nhau trên bờ sông Saine, bà tỏ tình mà Nguyễn Ái Quốc không mềm lòng. Khi bà qua đời để lại cuốn nhật ký, tôi được đọc nhật ký đó và hiện giờ con gái bà đang giữ. Con bà cũng nói với tôi “Mẹ tôi yêu Nguyễn Ái Quốc”. Đấy, tôi phải đi tìm cho được những bằng sử sau này mới đủ cơ sở khẳng định nhân cách một con người của một thời đại. Đúng, Hồ Chí Minh là nhân cách của một thời đại. Tôi cũng đến khách sạn Bosion Đông Bắc nước Mỹ, nơi Nguyễn Tất Thành ở đó làm thợ nặn bánh mì gần một năm trời và sau này chính các nhà đại văn hào Châu Âu qua Mỹ đều ở khách sạn này. Nguyễn Tất thành đã ghi lại tên tất cả những chính khách đến ở trong khách sạn Bosion. Ở đây có một cô gái quốc tịch Mỹ gốc Pháp tên là Cô-lét đã yêu say đắm Nguyến Tất Thành. Nguyễn Tất Thành rất thích nghe hát và xem kịch, nhất là kịch cổ điển. Được biết Hồ Chí Minh rất yêu nghệ thuật và tâm hồn nghệ thuật rất phong phú, nhưng Nguyễn Tất Thành rời nưóc ra đi không phải để hoạt động chính khách mà Người đi tìm đường cứu nước. Cô-lét khuyên dụ Người đi với bà và tỏ ý muốn kết hôn với Nguyễn Tất Thành, nhưng Người đã tìm cách an ủi Cô-lét để từ chối. Sau đó một thời gian Cô-lét trở thành một nhà văn lớn có tên tuổi. Nguyễn Tất Thành tâm sự và Cô-lét kể lại: “Nếu tôi muốn có một văn bằng thì tôi đã thi năm 1904 ở trong nước, vì lúc đó tôi có một người con gái quê nhà yêu mà đành bỏ lại trên bến cảng để ra đi”. Vừa rồi tôi có đọc một bài hồi ký đăng trên Tạp chí Lịch sử quân sự của viện quân sự Hoa Kỳ do một số sĩ quan Anh-Mỹ trong đội quân của đồng minh khi sang Đông Dương đóng ở Cao Bằng có dịp tiếp xúc với Chủ Tịch Hồ Chí Minh, tác giả tập hồi ký “Tôi sống cạnh Chủ Tịch Hồ Chí Minh từ những ngày đầu khởi nghĩa” chúng tôi có hỏi - không phải tò mò mà trên danh nghĩa là đàn ông với nhau, tại sao Chủ Tịch không lấy vợ, không lập gia đình? Hồ Chí Minh trả lời một cách chân tình và thân mật: khi còn trẻ phải đi hoạt động cách mạng, khi giành được độc lập thì đã già, nên không giám tính chuyện đó. Trước khi tôi ra đi, tôi có yêu một người con gái, người con gái đó cũng rất yêu tôi. Nhưng phải dừng lại về chuyện yêu đương, sau nhiều năm mất liên lạc, tôi không biết người con gái đó đang ở đâu, còn hay mất”. Như vậy người ta thấy Bác Hồ là một người cũng như moi người, cũng khát vọng tình yêu, cũng mong muốn có mái ấm gia đình, nếu có ai đó cho rằng những cái đó là nhỏ bé làm cho Bác Hồ kém vĩ đại là không đúng. Vì chính những cái đó tôn thêm Bác càng vĩ đại: Nhất là trong thời đại hiện nay, một số đông người đã tha hóa do chạy theo cuộc sống hưởng thụ vật chất, bất chấp cả nhân phẩm đạo đức, coi sự hưởng thụ là mục đích của cuộc sống. Tôi đã đi Quảng Châu và tôi biết Nguyễn Ái Quốc còn có một người yêu nữa tên Lý Phương Liên (bí danh) thư ký của Đông Phương bộ thuộc cục Phương Nam là vợ của Lý Thụy (Bác Hồ) ở phố văn minh, Quảng Châu, Trung Quốc. Thực tiễn cuộc sống có những việc nhìn thấy tận mắt chưa hẵn là thật. Khi ông Phạm Văn Đồng cùng một số người trong tổ chức Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội sang dự một khóa học chính trị tại nhà số 13 phố Văn Minh cũng tưởng Lý Phương Liên là vợ của Lý Thụy, nhưng sau mới biết thực tế không phải như vậy, đây chỉ là việc ngụy trang để che mắt mật thám. Tôi không coi vấn đế này quan trọng, tuy vậy thời gian tôi đến Liên Xô (cũ) tôi cũng biết có một cô gái Nga yêu Người, yêu tới mức bà ta không lấy được Nguyễn Ái Quốc và suốt đời ở vậy cho đến già rồi chết. Có một dân chứng người Nga được bà Nga tâm sự kể lại với tôi rằng: “Hai người yêu nhau nhưng không dám lấy, Nguyễn Ái Quốc nói lấy vợ thì phải để lại địa chỉ, phải có con, phải có trách nhiệm làm chồng, phải làm cha, và rồi thế nào mật thám cũng phát hiện ra. Cho nên Nguyễn Ái Quốc không lấy vợ và tôi cũng không lấy chồng”. Dân tộc Việt Nam mãi mãi tự hào về Hồ Chí Minh, nền văn minh nhân loại của thế kỷ XX này tự hào có một vĩ nhân được cả thế giới phong tặng anh hùng giẢi phÓng dân tỘc và danhnhân văn hóa kiỆt xuẤt Hồ Chí Minh mãi mãi là tấm guơng sáng về nhân cách một người thời đại cho mọi thề hệ tiếp sau. Huế, 4 -2000 C.H.H. (135/05-00) |
ĐỖ LAI THUÝPhê bình văn học Việt Nam, sau sự khởi nguồn của Thiếu Sơn với Phê bình và Cảo luận (1933) chia thành hai ngả. Một xuất phát từ Phê bình để trở thành lối phê bình chủ quan ấn tượng với Hoài Thanh và Thi nhân Việt Nam (1942). Lối kia bắt nguồn từ Cảo luận tạo nên phê bình khách quan khoa học với Vũ Ngọc Phan của Nhà văn hiện đại (1942), Trần Thanh Mai của Hàn Mặc Tử (1941), Trương Tửu của Nguyễn Du và Truyện Kiều (1942), Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (1945). Sự phân chia này, dĩ nhiên, không phải là hành chính, mà là khoa học, tức sự phân giới dựa trên những yếu tố chủ đạo, nên không phải là không thể vượt biên. Bởi, mọi biên giới đều mơ hồ hơn ta tưởng, nhất là ở khoa học văn chương.
LTS: Marcel Reich-Ranicki, sinh năm 1920, người ở Đức được mệnh danh là "Giáo hoàng văn học", là nhà phê bình văn học đương đại quan trọng nhất của CHLB Đức. "Một lời biện hộ cho thơ" là bài thuyết trình đọc vào ngày 30.11.1980 nhân dịp ra mắt Tập 5 của "Tuyển thơ Frankfurt" trong khuôn khổ chuyên mục thơ của nhật báo "Frankfurter Allgemeine Zeitung" (FAZ) mà tác giả là chủ biên phần văn học từ 1973 đến 1988.Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài "Một lời biện hộ cho thơ" của ông sau đây do dịch giả Trương Hồng Quang thực hiện.
TRẦN HUYỀN SÂMGeorge Sand (1804-1876) là một gương mặt độc đáo trên văn đàn Pháp thế kỷ XIX. Cùng thời với những cây bút nổi tiếng như: A.Lamartine, V.Hugo, A.Vigny, A.Musset... nữ sĩ vẫn tạo cho mình một tầm vóc riêng không chìm khuất. George Sand bước vào thế giới nghệ thuật bằng một thái độ tự tin và một khát vọng sáng tạo mãnh liệt. Với hơn hai mươi cuốn tiểu thuyết đồ sộ, G.Sand đã trở thành một tên tuổi lừng danh ngay từ đương thời. Dĩ nhiên, bà lừng danh còn bởi nhiều mối tình bất tử, trong đó có nhà thơ Pháp nổi tiếng A.Musset và nhạc sĩ thiên tài Chopin người Ba Lan.
PHẠM QUANG TRUNGCó lần, dăm ba người có thiên hướng lý luận chúng tôi gặp nhau, một câu hỏi có thể nói là quan thiết được nêu ra: trong quan niệm văn chương, e ngại nhất là thiên hướng nào? Rất mừng là ý kiến khá thống nhất, tuy phải trải qua tranh biện, không đến nỗi quyết liệt, cũng không phải hoàn toàn xuôi chiều hẳn. Có lẽ thế mới hay!
NGUYỄN HỮU HỒNG MINH1- "Thơ trẻ- Những giá trị mới" là một "mưu mô" của nhà phê bình trẻ Nguyễn Thanh Sơn và nhóm "Văn nghệ mới" (bao gồm Nguyễn Hữu Hồng Minh, Văn Cầm Hải, Phan Huyền Thư, Ly Hoàng Ly, Nguyễn Vĩnh Tiến, Dạ Thảo Phương... và một số người khác) dự tính tập hợp, tuyển chọn 1 tuyển thơ của 10 (hay nhiều hơn) tác giả trẻ từ 30 tuổi trở xuống, xuất hiện trong vòng 3 năm cuối cùng của thế kỉ để trình làng giới thiệu chân dung thế hệ mình.
NGUYỄN HOÀN Trịnh Công Sơn là một hiện tượng độc đáo của âm nhạc và văn hoá Việt Nam được ái mộ không chỉ ở trong nước mà cả ở nước ngoài. Vì thế mà từ khi ông qua đời đến nay đã có trên chục đầu sách viết về ông, một số lượng hiếm thấy đối với các nhạc sĩ khác. Gần đây có cuốn “Trịnh Công Sơn vết chân dã tràng” của Ban Mai do Nhà xuất bản Lao Động, Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây xuất bản, Hà Nội, 2008. Với niềm ngưỡng mộ tài hoa và nhân cách nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, tôi đã hăm hở tìm đọc cuốn sách mới này nhưng tiếc thay, chưa kịp trọn nỗi mừng đã phải thất vọng về những trang viết đánh giá đầy sai lệch và thiếu sót, phiến diện về Trịnh Công Sơn và chiến tranh Việt Nam.
HOÀNG QUỐC HẢIThơ Lý - Trần có mạch nguồn từ Đinh - Lê, nếu không muốn nói trước nữa. Rất tiếc, nguồn tư liệu còn lại cho chúng ta khảo cứu quá nghèo nàn.Nghèo nàn, nhưng cũng đủ tạm cho ta soi chiếu lại tư tưởng của tổ tiên ta từ cả ngàn năm trước.
NGUYỄN VĂN THUẤN (Nhóm nghiên cứu - lý luận phê bình trẻ)Thời gian gần đây, tại Việt , các tác phẩm của nhà văn Nhật Bản H.Murakami thường xuyên được dịch và xuất bản. Là một giọng nói hấp dẫn trên văn đàn thế giới, sáng tác của ông thu hút đông đảo công chúng và dành được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, phê bình. Một trong những tiểu thuyết làm nên danh tiếng của ông là Rừng Nauy.
PHAN TÂMQuê hương Phan Đăng Lưu, xã Hoa Thành, huyện Yên Thành, cách Kim Liên, Nam Đàn, quê hương Hồ Chí Minh khoảng 60 km.Hai nhân cách lớn của đất Nghệ An. Không hẹn mà gặp, xuất phát từ lương tri dân tộc, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, đến chủ nghĩa Mac - Lê nin, thành hai chiến sĩ cộng sản Việt Nam nổi tiếng.
THÁI DOÃN HIỂUNhà thơ Võ Văn Trực thuộc loại tài thì vừa phải nhưng tình thì rất lớn. Chính cái chân tình đó đã giúp anh bù đắp được vào năng lực còn hạn chế và mong manh của mình, vươn lên đạt được những thành tựu mới đóng góp cho kho tàng thi ca hiện đại của dân tộc 4 bài thơ xuất sắc: “Chị, Vĩnh viễn từ nay, Thu về một nửa và Nghĩa địa làng, người ta sẽ còn đọc mãi.
HÀ ÁNH MINHBài thứ nhất, Một cuộc đời "Ngậm ngải tìm trầm" của Vương Trí Nhàn, đăng trên tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam số Xuân Canh Thìn năm 2000, và bài thứ hai "Sư phụ Thanh Tịnh làm báo tết" của Ngô Vĩnh Bình, đăng trên báo Văn Nghệ, số Tết cũng năm Canh Thìn 2000. Bài đầu tiên viết dài, giọng văn trau chuốt điệu nghệ. Bài sau ngắn, mộc mạc.
LÊ THỊ HƯỜNGDẫu mượn hình thức của thể kí, dẫu tìm đến vần điệu của thơ, điểm nhất quán trong sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường là một cái tôi say đắm thiên nhiên. Đằng sau những tài hoa câu chữ là một cái tôi đa cảm - quá chừng là đa cảm - luôn dành cho cỏ dại những tình cảm lớn lao.
BỬU NAM1. Nếu văn xuôi hư cấu (đặc biệt là tiểu thuyết) chiếm vị trí hàng đầu trong bức tranh thể loại của văn học Mỹ - La tinh nửa sau thế kỷ XX, thì thơ ca của lục địa này ở cùng thời gian cũng phát triển phong phú và rực rỡ không kém, nó tiếp tục đà cách tân và những tìm tòi đổi mới của những nhà thơ lớn ở những năm 30 - 40.
NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP1. Khi chạm vào cơn lốc và những điệu rock thơ mang tên Vi Thuỳ Linh, bất chợt tôi nhớ đến câu thơ dịu dàng và sâu thẳm của Paul Eluard: Trái đất màu xanh như một quả cam. Với P. Eluard, tình yêu là một thế giới tinh khiết, rạng rỡ và ngọt ngào: Đến mức tưởng em khỏa thân trước mặt. Còn Vi Thuỳ Linh, nếu ai hỏi thế giới màu gì, tôi đồ rằng nàng Vi sẽ trả lời tắp lự: Màu yêu.
HÀ VĂN LƯỠNG1. Cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của nhân dân Xô Viết là một bản anh hùng ca bất tử của dân tộc Nga trong thế kỷ XX (1941-1945). Nó mãi mãi đi vào lịch sử vẻ vang và oanh liệt, không chỉ của đất nước Xô Viết mà còn cả với nhân loại tiến bộ yêu chuộng hòa bình trên thế giới, khẳng định bản chất tốt đẹp và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của con ngưòi Xô Viết.
LƯƠNG THỰC THULTS: Lương Thực Thu, sinh năm 1903 tại Bắc Kinh, thời nhỏ học ở trường Thanh Hoa. Năm 1923 du học tại Mỹ. Năm 1926 về nước, lần lượt dạy học ở trường Đại học Đông Nam, Đại học Thanh Đảo, Đại học Bắc Kinh, và Đại học Sư phạm Bắc Kinh. Năm 1949 sang ở Đài Loan, chủ yếu giảng dạy ở Đại học Sư phạm Đài Loan. Năm 1966 nghỉ hưu, năm 1987 ốm chết tại Đài Bắc.
NGUYỄN XUÂN HOÀNG (Đọc “Lý luận và văn học”, NXB Trẻ 2005 của GS.TS Lê Ngọc Trà)Ra mắt bạn đọc năm 1990, năm 1991, cuốn sách “Lý luận và văn học” của Giáo sư - Tiến sĩ Lê Ngọc Trà được trao giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. 15 năm qua, những tưởng một số vấn đề về lý luận văn học mà cuốn sách đề cập đã không còn mới, đã “lạc hậu” so với tiến trình phát triển của văn học. Nhưng không, khi đọc lại cuốn sách được nhà xuất bản Trẻ tái bản lần thứ nhất năm 2005, những vấn đề mà GS.TS Lê Ngọc Trà đề cập vẫn còn nóng hổi và giữ nguyên tính thời sự của nó.
TRẦN ĐÌNH SỬLí luận văn học Việt Nam thế kỉ XX đã trải qua ba lần thay đổi hệ hình tư duy. Lần thứ nhất diễn ra vào những năm 1932 đến 1945 với việc hình thành quan niệm văn học biểu hiện con người, xã hội, lấy thẩm mĩ làm nguyên tắc, chống lại quan niệm văn học thời trung đại lấy tải đạo, giáo huấn, học thuật làm chính tông, mở ra một thời đại mới trong văn học dân tộc.
HỒ THẾ HÀĐà Linh - Cây bút truyện ngắn quen thuộc của bạn đọc cả nước, đặc biệt, của Đà Nẵng với các tác phẩm Giấc mơ của dòng sông (1998), Nàng Kim Chi sáu ngón (1992),Truyện của Người (1992) và gần đây nhất là Vĩnh biệt cây Vông Đồng (1997). Bên cạnh ấy, Đà Linh còn viết biên khảo văn hoá, địa chí và biên dịch.
NGÔ MINHBữa nay, người làm thơ đông không nhớ hết. Cả nước ta mỗi năm có tới gần ngàn tập thơ được xuất bản. Mỗi ngày trên hàng trăm tờ báo Trung ương, địa phương đều có in thơ. Nhưng, tôi đọc thấy đa phần thơ ta cứ na ná giống nhau, vần vè dễ dãi, rậm lời mà thiếu ý.