Chủ tịch Hồ Chí Minh bàn về Lê nin và Cách mạng Tháng Mười

15:36 26/09/2008
HÀ VĂN THỊNH                                                  Luận điểm trung tâm của Tư tưởng Hồ Chí Minh là Độc lập dân tộc phải gắn liền với CNXH. Đó là quan điểm chiến lược có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ tiến trình Cách mạng Việt . Chính vì thế, nắm bắt một cách sâu sắc tinh thần biện chứng của chủ nghĩa Lê Nin để vận dụng thật sáng tạo kinh nghiệm của Cách mạng tháng Mười (CMT10) vào hoàn cảnh cụ thể của Cách mạng Việt Nam (CMVN) là mục đích xuyên suốt của Tinh thần và Tư tưởng Hồ Chí Minh.


1. Ngày thứ nhất mà Nguyễn Ái Quốc (NAQ) trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên (26.12.1920) được đánh dấu bằng sự kiện dứt khoát: Người khẳng định rằng những đảng viên của Đảng Xã hội Pháp, muốn thành lập một Đảng Cộng sản thì phải thực hiện nguyên tắc “Đảng phải tuyên truyền chủ nghĩa xã hội trong tất cả các nước thuộc địa”. Đây phải được coi là Tuyên ngôn Hồ Chí Minh - bởi 15 chữ ấy bao quát rất nhiều ý nghĩa. Thứ nhất, con đường mà CMT10 đã đi sẽ là con đường duy nhất của CMVN như về sau Người nói, “Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta”. Thứ hai, NAQ đã vạch ra chiến lược đại đoàn kết mà nội dung cơ sở của nó là đoàn kết quốc tế; cụ thể trong trường hợp này là sự không thể phân chia; không thể không gắn kết của cách mạng chính quốc và thuộc địa.

Thứ ba, dường như NAQ đã tiên đoán được thật rõ ràng vai trò của mình đối với dân tộc Việt nói riêng, phong trào cộng sản quốc tế nói chung nên ngay sau đó người tuyên bố đanh thép: “Nhân danh toàn thể loài người, nhân danh tất cả các đảng viên xã hội…”. Nếu chúng ta xét về hoàn cảnh một người dân thuộc địa, 30 tuổi, dám nhân danh cả loài người ngay tại chính quốc của thuộc địa ấy mới thấy được cái dũng khí phi thường và tầm vóc tiên tri – cái chỉ có ở một thiên tài! Thứ tư, ngay trong Ngày thứ nhất ấy, NAQ đã có niềm tin vững chắc vào “Luồng gió từ nước Nga thợ thuyền… đang thổi đến giải độc cho người Đông Dương”. Có thể nói, không thể tìm ra một dẫn chứng nào tốt hơn để hiểu cách mà NAQ đã khái quát thật ngắn nhưng thật đủ ý nghĩa của CMT10 đối với CMVN. Thứ năm, khi bàn về CNXH, NAQ chưa hiểu rõ CNXH là gì, CNCS là gì; nhưng rất nhanh sau đó, Người đã tìm hiểu kỹ về những kinh nghiệm của CMT10 như Người đã đoan quyết: “Đến năm 1897 tờ báo Kêxari mới ra đời… Tờ báo (ấy) thường xuyên phổ biến cho độc giả tìm hiểu phương pháp cách mạng Nga” (chúng tôi nhấn mạnh – HVT). Chỉ có ai thường xuyên đọc tờ báo Kêxari của Ấn Độ mới có thể viết ra câu đó. Qua đây, chúng ta càng thấy rõ hơn về khối lượng kiến thức rất lớn mà NAQ đã tiếp cận khi tìm đến, để hiểu, CMT10.

2. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết riêng về Lê Nin và chủ nghĩa Lê Nin tất cả là 8 bài (không kể việc bàn về Lê Nin trong các bài chung khác). Trong đó, tiêu đề “Lê Nin và các dân tộc thuộc địa” được dùng chung cho 3 bài viết vào tháng 1.1924, tháng 2 và tháng 12.1925. Bài cuối cùng Hồ Chí Minh viết về Lê Nin là bài “Chủ nghĩa Lê Nin vĩ đại muôn năm” (tháng 4.1962).
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh đến ý nghĩa quan trọng nhất của tư tưởng của Lê Nin, là ở chỗ, “Lê Nin là người đầu tiên đã chỉ rõ rằng, nếu không có sự tham gia của các dân tộc thuộc địa, thì cách mạng xã hội không thể có được”; vì thế, chủ nghĩa Lê Nin “không những là kim chỉ nam, mà còn là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi…”.  

Khi bàn về chủ nghĩa Lê Nin, Hồ Chí Minh đã nêu ra luận điểm quan trọng, đó là, Người khẳng định những thành công của CMVN đã “góp phần ít nhiều vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê Nin”. Điều đáng chú ý, đây là bài viết cho báo Sự Thật, thời điểm năm 1962, nên vì lý do ngoại giao, Hồ Chí Minh chưa khẳng định Đường lối CMVN do Đảng Lao động Việt Nam (ĐCSVN ngày nay) đề ra là sáng tạo, độc lập, tự chủ như bây giờ chúng ta thường xuyên nhấn mạnh, nhưng qua cách viết rất uyển ngữ, ai cũng hiểu: “Chúng tôi cố gắng làm đúng như Lê Nin dạy; Chúng tôi đều cố gắng làm theo đường lối mà Lê Nin đã vạch ra” (chúng tôi in nghiêng – HVT). Sự sáng tạo của Đảng ta nói chung, Hồ Chí Minh nói riêng đã được Hồ Chí Minh khẳng định trong một bài viết khác, nhân dịp kỷ niệm CMT10, in trên báo Sự Thật 5 năm sau, ngày 1.11.1967: “…Chỉ có sự lãnh đạo của một đảng biết vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê Nin vào điều kiện cụ thể của nước mình thì mới có thể đưa cách mạng giải phóng dân tộc đến thắng lợi và cách mạng xã hội chủ nghĩa thành công”.

Nếu đọc những dòng chữ ghi cảm tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Sổ Vàng lưu niệm tại điện Kremli cách đây 52 năm (13.7.1955), chúng ta sẽ rất bất ngờ khi thấy: “Lê Nin, người thầy dạy vĩ đại của cách mệnh vô sản. Cũng là một vị đạo đức rất cao, dạy chúng ta phải cần, kiệm, liêm, chính. Tinh thần Lê Nin muôn đời bất diệt”. Nghe câu trên có cảm giác như Hồ Chí Minh vừa mới nói sáng nay. Rõ ràng, cần, kiệm, liêm, chính của người cán bộ cách mạng là nỗi trăn trở, day dứt lâu dài của Hồ Chủ tịch. Ngay giữa Hồng trường ở nước Nga xa xôi mà Người vẫn nghĩ đến điều đó, đặc biệt nhấn mạnh đến đạo đức của người thầy vĩ đại là Lê Nin, đủ để biết Người lo lắng đến mức nào. Qua đây, chúng ta càng hiểu hơn việc học tập đạo đức cách mạng từ các vị lãnh tụ như Lê Nin, Hồ Chí Minh là quan trọng biết bao!

3. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết khá nhiều về CMT10, nhất là trong các dịp kỷ niệm hay đi thăm Liên Xô. Bài cuối cùng là bài nhân kỷ niệm 50 năm CMT10, tháng 11.1967, dài đến 5.000 chữ.
Bên cạnh những ý nghĩa, kinh nghiệm chung phổ biến mà hầu hết các nhà sử học đã bàn đến, trong bài này xin phép không nhắc lại; theo tôi, Hồ Chí Minh đã có những ý kiến đáng chú ý sau đây, tập trung trong bài viết Kỷ niệm 40 năm CMT10 với nhan đề “Cách mạng Tháng Mười và sự nghiệp giải phóng các dân tộc phương Đông”, tháng 11.1957, dài đến gần 8.000 từ. Đây là bài viết theo đơn đặt hàng của Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Liên Xô. Và, đây cũng là bài Bác Hồ viết dài nhất, dành nhiều suy nghĩ tâm huyết nhất về sự kiện trọng đại này.

Thứ nhất, một trong những ý nghĩa quan trọng nhất mà Hồ Chí Minh chỉ ra đó là CMT10 đã đưa ra một mẫu mực về “khả năng lật đổ nền chuyên chính của bọn bóc lột…”. Cái đáng bàn là ở chỗ, chính nhờ cái giá trị của “khả năng” ấy mà CMVN nói riêng, cách mạng của nhiều nước mới vận dụng sáng tạo và thành công. Nói như thế cũng có nghĩa là Hồ Chí Minh đã cảnh báo mọi ý định rập khuôn, máy móc theo hình mẫu của CMT10 là sai lầm. Quả thực, chỉ cần có hai từ nhưng Hồ Chí Minh đã nhắc nhở và căn dặn chúng ta rất nhiều.

Thứ hai, Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng “Cách mạng Tháng Mười đã đem đến cho các dân tộc phương Đông một sự giúp đỡ có tính chất quyết định…” (chúng tôi nhấn mạnh – HVT). Về mặt logic hình thức, CMT10 diễn ra trước thắng lợi của CMVN gần 30 năm nhưng Hồ Chí Minh vẫn dùng cụm từ “giúp đỡ” và “quyết định”. Nếu chúng ta nhìn lại những sách và chuyên khảo về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thì sẽ thấy chúng ta đánh giá sự giúp đỡ của Liên Xô, Trung Quốc và các nước XHCN anh em chỉ ở tầm mức “quan trọng”. Cách nhìn đó đối chiếu với phương pháp luận Hồ Chí Minh, rõ ràng là chưa thỏa đáng. Theo chúng tôi, đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến hiểu lầm trong quan hệ ngoại giao đầy phức tạp của thế giới đương đại.

Thứ ba, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định đầy tự hào về thành công to lớn của Đảng Lao động Việt Nam trong việc vận dụng một cách sáng tạo kinh nghiệm của CMT10 trong đoạn văn sau:
“Cuộc cách mạng trong các nước thuộc địa và nửa thuộc địa là một cuộc cách mạng dân tộc - dân chủ. Để đưa cuộc cách mạng đó đến thắng lợi, có thể và cần phải thành lập một mặt trận dân tộc rất rộng rãi, đoàn kết tất cả các giai cấp và tầng lớp xã hội… Giai cấp tư sản dân tộc có thể tham gia tích cực vào cuộc cách mạng dân tộc dân chủ. Cuộc cách mạng trong các nước thuộc địa và nửa thuộc địa trước hết là cuộc cách mạng nông dân”.
Trước hết, phải thấy là CMT10 không hề có một trung tâm đoàn kết các tầng lớp xã hội là tổ chức Mặt trận. Đây là sáng tạo độc đáo của CMVN mà điển hình nhất là Việt Độc lập Đồng minh do Hồ Chí Minh sáng lập ngày 19.5.1941. Hơn thế nữa, Hồ Chí Minh còn nhấn mạnh về tính chất rất rộng rãi của tổ chức này. Luận điểm thứ hai là khẳng định về tính tích cực của giai cấp tư sản dân tộc. Ngay cả Lê Nin cũng chưa bao giờ nghĩ đến khái niệm này. Luận điểm thứ ba về cuộc cách mạng nông dân là một tư tưởng đột phá táo bạo. Có thể coi đây là một trong những đóng góp đáng kể nhất của Tư tưởng Hồ Chí Minh vào kho tàng lý luận cách mạng của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Sau cùng, phải lưu ý là, theo chúng tôi, đây là một trong 10 bài viết có tầm vóc lý luận sâu sắc nhất, đáng nghiên cứu nhất khi chúng ta tìm hiểu về Tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh.

Tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh là cái kho chân lý dường như vô tận. Có những vấn đề tưởng chừng như đã hiểu, đã biết nhưng đọc lại các trước tác của Người, chúng ta lại tìm ra những dấu ấn mới, những viên ngọc mới. Sự lung linh, vô giá của nhân cách và tư duy Hồ Chí Minh là ánh sáng rực rỡ nhất làm nên sự vĩ tuyệt của hai tiếng Việt .
Ngày 27.1.1924, trong bài: “Lê Nin và các dân tộc thuộc địa” đăng trên báo Sự Thật, NAQ viết: “Làm những điều mà Người (tức Lê Nin – HVT) đã căn dặn chúng ta, đó chẳng phải là phương pháp tốt nhất để tỏ tình yêu mến của chúng ta đối với Người hay sao?”.

Hôm nay, chúng ta rất muốn nhắc lại rằng, phương pháp tốt nhất để thể hiện tình cảm của mỗi người dân Việt Nam đối với Hồ Chủ tịch; phương pháp tốt nhất để thực hiện bổn phận và trách nhiệm của mỗi công dân trong thời đại mới, để đưa đất nước Việt Nam tiến lên trên con đường hùng cường, giàu mạnh; chính là, học tập tư tưởng và đạo đức của Hồ Chí Minh từ một cách nhìn khác: Ánh sáng của chủ nghĩa Lê Nin và tấm gương CMT10.
             H.V.T

(nguồn: TCSH số 225 - 11 - 2007)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN HUYỀN SÂMGeorge Sand (1804-1876) là một gương mặt độc đáo trên văn đàn Pháp thế kỷ XIX. Cùng thời với những cây bút nổi tiếng như: A.Lamartine, V.Hugo, A.Vigny, A.Musset... nữ sĩ vẫn tạo cho mình một tầm vóc riêng không chìm khuất. George Sand bước vào thế giới nghệ thuật bằng một thái độ tự tin và một khát vọng sáng tạo mãnh liệt. Với hơn hai mươi cuốn tiểu thuyết đồ sộ, G.Sand đã trở thành một tên tuổi lừng danh ngay từ đương thời. Dĩ nhiên, bà lừng danh còn bởi nhiều mối tình bất tử, trong đó có nhà thơ Pháp nổi tiếng A.Musset và nhạc sĩ thiên tài Chopin người Ba Lan.

  • PHẠM QUANG TRUNGCó lần, dăm ba người có thiên hướng lý luận chúng tôi gặp nhau, một câu hỏi có thể nói là quan thiết được nêu ra: trong quan niệm văn chương, e ngại nhất là thiên hướng nào? Rất mừng là ý kiến khá thống nhất, tuy phải trải qua tranh biện, không đến nỗi quyết liệt, cũng không phải hoàn toàn xuôi chiều hẳn. Có lẽ thế mới hay!

  • NGUYỄN HỮU HỒNG MINH1- "Thơ trẻ- Những giá trị mới" là một "mưu mô" của nhà phê bình trẻ Nguyễn Thanh Sơn và nhóm "Văn nghệ mới" (bao gồm Nguyễn Hữu Hồng Minh, Văn Cầm Hải, Phan Huyền Thư, Ly Hoàng Ly, Nguyễn Vĩnh Tiến, Dạ Thảo Phương... và một số người khác) dự tính tập hợp, tuyển chọn 1 tuyển thơ của 10 (hay nhiều hơn) tác giả trẻ từ 30 tuổi trở xuống, xuất hiện trong vòng 3 năm cuối cùng của thế kỉ để trình làng giới thiệu chân dung thế hệ mình.

  • NGUYỄN HOÀN Trịnh Công Sơn là một hiện tượng độc đáo của âm nhạc và văn hoá Việt Nam được ái mộ không chỉ ở trong nước mà cả ở nước ngoài. Vì thế mà từ khi ông qua đời đến nay đã có trên chục đầu sách viết về ông, một số lượng hiếm thấy đối với các nhạc sĩ khác. Gần đây có cuốn “Trịnh Công Sơn vết chân dã tràng” của Ban Mai do Nhà xuất bản Lao Động, Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây xuất bản, Hà Nội, 2008. Với niềm ngưỡng mộ tài hoa và nhân cách nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, tôi đã hăm hở tìm đọc cuốn sách mới này nhưng tiếc thay, chưa kịp trọn nỗi mừng đã phải thất vọng về những trang viết đánh giá đầy sai lệch và thiếu sót, phiến diện về Trịnh Công Sơn và chiến tranh Việt Nam.

  • HOÀNG QUỐC HẢIThơ Lý - Trần có mạch nguồn từ Đinh - Lê, nếu không muốn nói trước nữa. Rất tiếc, nguồn tư liệu còn lại cho chúng ta khảo cứu quá nghèo nàn.Nghèo nàn, nhưng cũng đủ tạm cho ta soi chiếu lại tư tưởng của tổ tiên ta từ cả ngàn năm trước.

  • NGUYỄN VĂN THUẤN          (Nhóm nghiên cứu - lý luận phê bình trẻ)Thời gian gần đây, tại Việt , các tác phẩm của nhà văn Nhật Bản H.Murakami thường xuyên được dịch và xuất bản. Là một giọng nói hấp dẫn trên văn đàn thế giới, sáng tác của ông thu hút đông đảo công chúng và dành được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, phê bình. Một trong những tiểu thuyết làm nên danh tiếng của ông là Rừng Nauy.

  • PHAN TÂMQuê hương Phan Đăng Lưu, xã Hoa Thành, huyện Yên Thành, cách Kim Liên, Nam Đàn, quê hương Hồ Chí Minh khoảng 60 km.Hai nhân cách lớn của đất Nghệ An. Không hẹn mà gặp, xuất phát từ lương tri dân tộc, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, đến chủ nghĩa Mac - Lê nin, thành hai chiến sĩ cộng sản Việt Nam nổi tiếng.

  • THÁI DOÃN HIỂUNhà thơ Võ Văn Trực thuộc loại tài thì vừa phải nhưng tình thì rất lớn. Chính cái chân tình đó đã giúp anh bù đắp được vào năng lực còn hạn chế và mong manh của mình, vươn lên đạt được những thành tựu mới đóng góp cho kho tàng thi ca hiện đại của dân tộc 4 bài thơ xuất sắc: “Chị, Vĩnh viễn từ nay, Thu về một nửa và Nghĩa địa làng, người ta sẽ còn đọc mãi.

  • HÀ  ÁNH MINHBài thứ nhất, Một cuộc đời "Ngậm ngải tìm trầm" của Vương Trí Nhàn, đăng trên tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam số Xuân Canh Thìn năm 2000, và bài thứ hai "Sư phụ Thanh Tịnh làm báo tết" của Ngô Vĩnh Bình, đăng trên báo Văn Nghệ, số Tết cũng năm Canh Thìn 2000. Bài đầu tiên viết dài, giọng văn trau chuốt điệu nghệ. Bài sau ngắn, mộc mạc.

  • LÊ THỊ HƯỜNGDẫu mượn hình thức của thể kí, dẫu tìm đến vần điệu của thơ, điểm nhất quán trong sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường là một cái tôi say đắm thiên nhiên. Đằng sau những tài hoa câu chữ là một cái tôi đa cảm - quá chừng là đa cảm - luôn dành cho cỏ dại những tình cảm lớn lao.  

  • BỬU NAM1. Nếu văn xuôi hư cấu (đặc biệt là tiểu thuyết) chiếm vị trí hàng đầu trong bức tranh thể loại của văn học Mỹ - La tinh nửa sau thế kỷ XX, thì thơ ca của lục địa này ở cùng thời gian cũng phát triển phong phú và rực rỡ không kém, nó tiếp tục đà cách tân và những tìm tòi đổi mới của những nhà thơ lớn ở những năm 30 - 40.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP1. Khi chạm vào cơn lốc và những điệu rock thơ mang tên Vi Thuỳ Linh, bất chợt tôi nhớ đến câu thơ dịu dàng và sâu thẳm của Paul Eluard: Trái đất màu xanh như một quả cam. Với P. Eluard, tình yêu là một thế giới tinh khiết, rạng rỡ và ngọt ngào: Đến mức tưởng em khỏa thân trước mặt. Còn Vi Thuỳ Linh, nếu ai hỏi thế giới màu gì, tôi đồ rằng nàng Vi sẽ trả lời tắp lự: Màu yêu.

  • HÀ VĂN LƯỠNG1. Cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của nhân dân Xô Viết là một bản anh hùng ca bất tử của dân tộc Nga trong thế kỷ XX (1941-1945). Nó mãi mãi đi vào lịch sử vẻ vang và oanh liệt, không chỉ của đất nước Xô Viết mà còn cả với nhân loại tiến bộ yêu chuộng hòa bình trên thế giới, khẳng định bản chất tốt đẹp và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của con ngưòi Xô Viết.

  • LƯƠNG THỰC THULTS: Lương Thực Thu, sinh năm 1903 tại Bắc Kinh, thời nhỏ học ở trường Thanh Hoa. Năm 1923 du học tại Mỹ. Năm 1926 về nước, lần lượt dạy học ở trường Đại học Đông Nam, Đại học Thanh Đảo, Đại học Bắc Kinh, và Đại học Sư phạm Bắc Kinh. Năm 1949 sang ở Đài Loan, chủ yếu giảng dạy ở Đại học Sư phạm Đài Loan. Năm 1966 nghỉ hưu, năm 1987 ốm chết tại Đài Bắc.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG   (Đọc “Lý luận và văn học”, NXB Trẻ 2005 của GS.TS Lê Ngọc Trà)Ra mắt bạn đọc năm 1990, năm 1991, cuốn sách “Lý luận và văn học” của Giáo sư - Tiến sĩ Lê Ngọc Trà được trao giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. 15 năm qua, những tưởng một số vấn đề về lý luận văn học mà cuốn sách đề cập đã không còn mới, đã “lạc hậu” so với tiến trình phát triển của văn học. Nhưng không, khi đọc lại cuốn sách được nhà xuất bản Trẻ tái bản lần thứ nhất năm 2005, những vấn đề mà GS.TS Lê Ngọc Trà đề cập vẫn còn nóng hổi và giữ nguyên tính thời sự của nó.

  • TRẦN ĐÌNH SỬLí luận văn học Việt Nam thế kỉ XX đã trải qua ba lần thay đổi hệ hình tư duy. Lần thứ nhất diễn ra vào những năm 1932 đến 1945 với việc hình thành quan niệm văn học biểu hiện con người, xã hội, lấy thẩm mĩ làm nguyên tắc, chống lại quan niệm văn học thời trung đại lấy tải đạo, giáo huấn, học thuật làm chính tông, mở ra một thời đại mới trong văn học dân tộc.

  • HỒ THẾ HÀĐà Linh - Cây bút truyện ngắn quen thuộc của bạn đọc cả nước, đặc biệt, của Đà Nẵng với các tác phẩm Giấc mơ của dòng sông (1998), Nàng Kim Chi sáu ngón (1992),Truyện của Người (1992) và gần đây nhất là Vĩnh biệt cây Vông Đồng (1997). Bên cạnh ấy, Đà Linh còn viết biên khảo văn hoá, địa chí và biên dịch.

  • NGÔ MINHBữa nay, người làm thơ đông không nhớ hết. Cả nước ta mỗi năm có tới gần ngàn tập thơ được xuất bản. Mỗi ngày trên hàng trăm tờ báo Trung ương, địa phương đều có in thơ. Nhưng, tôi đọc thấy đa phần thơ ta cứ na ná giống nhau, vần vè dễ dãi, rậm lời mà thiếu ý.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ     Ba công trình dày dặn nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh của cùng một tác giả, cùng được xuất bản trong năm 2005 kể cũng đáng gọi là "hiện tượng" trong ngành xuất bản. Ba công trình đó là "Hồ Chí Minh - danh nhân văn hóa" (NXB Văn hóa Thông tin, 315 trang), "Hồ Chí Minh - một nhân cách lớn" (NXB Văn hóa thông tin, 510 trang) và "Đạo Khổng trong văn Bác Hồ" (NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 375 trang).

  • PHAN CÔNG TUYÊNLTS: Cuộc thi tìm hiểu “60 năm Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam” do Ban Tư tưởng - Văn hoá trung ương, website Đảng Cộng sản Việt Nam phối hợp với Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia phát động trong cả nước. Tại Thừa Thiên Huế, cuộc thi được phát động từ ngày 7/5/2005 đến ngày 10/7/2005; Ban tổ chức cuộc thi đã nhận được 160.840 bài dự thi của rất nhiều tầng lớp nhân dân, nhiều thành phần trong xã hội tham gia. Điều này chứng tỏ cuộc thi mang nhiều sức hấp dẫn. Sông Hương xin trích đăng báo cáo tổng kết cuộc thi của đồng chí Phan Công Tuyên, UVTV, Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ, Trưởng Ban tổ chức cuộc thi tại Thừa Thiên Huế.