Chữ “tôi” trong Truyện Kiều

14:29 27/06/2014

MAI VĂN HOAN

Ngôn ngữ nói chung và chữ tôi nói riêng, khi bước vào tác phẩm văn học cũng có số phận thăng trầm liên quan mật thiết đến những thăng trầm của lịch sử nước nhà. Tìm hiểu chữ tôi trong tiến trình phát triển văn học Việt Nam là một đề tài khá lý thú. Ở bài viết này, tôi chỉ đi sâu khảo sát chữ tôi được thiên tài Nguyễn Du sử dụng trong tác phẩm Truyện Kiều.

Tranh của họa sĩ Ngọc Mai - Ảnh: internet

Người Việt chúng ta từ xưa đến nay thường sử dụng chữ tôi với ba nghĩa khác nhau. Nghĩa thứ nhất: Tôi là đại từ nhân xưng, thường dùng khi xưng hô với những người đồng trang lứa hoặc với mọi người. Khi xưng tôi với những người mà tuổi tác, địa vị cao hơn hoặc thấp hơn thì sắc thái biểu cảm của chữ tôi thay đổi tùy theo từng đối tượng, hoàn cảnh. Nghĩa thứ hai: Tôi là danh từ. Nghĩa này được dùng để chỉ quan hệ vua - tôi (bầy tôi của vua), quan hệ chủ - tớ (tôi tớ, tôi đòi…). Nghĩa thứ ba: Tôi là động từ (tôi luyện, tôi sắt, tôi vôi…). Cũng là đại từ nhân xưng nhưng chữ tôi có khác chữ ta. Ta thường được dùng khi người trên nói với kẻ dưới, mình nói với mình. Cũng có trường hợp ta được dùng để xưng hô với người mình yêu mến (mình - ta).

Theo Hoài Thanh: “Xã hội Việt Nam từ xưa không có cá nhân. Chỉ có đoàn thể: lớn thì quốc gia, nhỏ thì gia đình” (Thi nhân Việt Nam). Vì thế, trong văn học Trung đại, chữ ta xuất hiện khá phổ biến và Truyện Kiều cũng không là ngoại lệ. Mật độ xuất hiện của chữ ta trong Truyện Kiều khá dày đặc chẳng thua kém gì chữ hoa, chữ xuân, chữ mây, chữ tình, chữ nghĩa… Cõi người cũng được đại thi hào Nguyễn Du gọi là “cõi người ta”. Từ Kim Trọng, Thúc Sinh, Từ Hải, Hoạn Thư đến bọn “buôn thịt, bán người” như Tú Bà, Mã Giám Sinh, Sở Khanh đều có ít nhất một lần xưng ta. Ta hãy nghe Sở Khanh huyênh hoang với nàng Kiều: Ta đây nào phải ai đâu mà rằng!/ Nàng đã biết đến ta chăng/ Bể trầm luân, lấp cho bằng mới thôi! Hắn còn bốc phét: Rằng ta có ngựa truy phong/ Có tên dưới trướng, vốn dòng kiện nhi... Còn Hoạn Thư thì đay nghiến: Giấu ta, ta cũng liệu bài giấu cho/ Lo gì việc ấy mà lo/ Kiến trong miệng chén có bò đi đâu… Ngay cả nàng Kiều khi độc thoại nội tâm với bóng hình Kim Trọng cũng có lần xưng ta: ta khăng khít cho người dở dang. Trong văn học Trung đại chữ tôi được dùng với nghĩa danh từ: bầy tôi, tôi tớ, tôi đòi… không hiếm, nhưng chữ tôi dùng với nghĩa đại từ nhân xưng thì vô cùng hiếm hoi. Tác phẩm Tự tình khúc của Cao Bá Nhạ dài ngót nghét 538 câu mà không hề có lấy một chữ tôi nào. Trước khi bắt tay viết bài này, tôi cũng đã cẩn thận rà soát lại Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm khúc, Lục Vân Tiên, thơ Cao Bá Quát, thơ Nguyễn Công Trứ… thì chỉ bắt gặp rải rác một vài chữ tôi với nghĩa danh từ, còn chữ tôi với nghĩa đại từ nhân xưng hầu như vắng bóng. Điều đó cũng không có gì khó hiểu. Thời phong kiến, bao nhiêu quan lại muốn tâu trình, muốn bày tỏ lòng mình với vua, chúa với những đấng minh quân đều phải xưng là bầy tôi. Đó là cái thời biết bao người phải đi ở đợ, phải đi làm thuê, làm mướn, phải sống kiếp lầm than thì trong văn chương xuất hiện nhiều chữ tôi đòi, tôi tớ là chuyện bình thường. Đó là thời mà “cá nhân, cái bản sắc của cá nhân chìm đắm trong gia đình, trong quốc gia như giọt nước trong biển cả” (Hoài Thanh, sđd). Vì vậy, trong các tác phẩm văn học Trung đại khó lòng tìm thấy chữ tôi theo nghĩa đại từ nhân xưng cũng là điều tất yếu. Chữ tôi với nghĩa đại từ nhân xưng chỉ “sinh sôi, nảy nở” trong các trào lưu văn học thời 30 - 45 (khi mà luồng gió từ phương Tây thổi ào ạt vào nước ta). Hoài Thanh hình dung: “Ngày thứ nhất - ai biết đích ngày nào - chữ tôi xuất hiện trên thi đàn Việt Nam, nó thực bỡ ngỡ. Nó như lạc loài nơi đất khách. Bởi nó mang theo một quan niệm chưa từng thấy ở xứ này: quan niệm cá nhân” (sđd). Cái “ngày thứ nhất” đó, theo tôi là ngày trên thi đàn Việt Nam xuất hiện hai ngôi sao chói sáng: Nguyễn Du và Hồ Xuân Hương. Trong mấy chục bài thơ tương truyền là của Hồ Xuân Hương, tôi đã may mắn tìm thấy một chữ tôi. Đấy là chữ tôi trong bài Ốc nhồi: Bác mẹ sinh ra phận ốc nhồi/ Đêm ngày lăn lóc đám cỏ hôi/ Quân tử có thương thì bóc yếm/ Xin đừng ngó ngoáy lỗ trôn tôi... Ý thức cá nhân ở Hồ Xuân Hương còn bộc lộ khá mạnh mẽ trong các bài thơ: Mời trầu, Tự tình, Quả mít, Hang Cắc Cớ, Đèo Ba Dội… Còn trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, tôi đã thống kê được cả thảy 25 chữ tôi - một con số khá ấn tượng! Trong số 25 chữ tôi đó chỉ có 3 lần nhà thơ dùng với nghĩa danh từ. Một lần chữ tôi được Nguyễn Du dùng khá độc đáo: vừa là danh từ vừa là đại từ. Tất cả các trường hợp còn lại nhà thơ đều dùng với nghĩa đại từ nhân xưng. Có đến 6 nhân vật từng xưng tôi trong Truyện Kiều. Đó là: Thúy Kiều, Kim Trọng, Thúc Sinh, Hoạn Thư, gia nô của Hoạn Thư và hồn ma Đạm Tiên. Gia nô của Hoạn Thư nói với Kiều về việc Hoạn Thư nghe lén cuộc chuyện trò giữa Thúc Sinh và nàng Kiều ở Quan Âm các: Ngăn tôi đứng lại một bên/ Chán tai rồi mới bước lên trên lầu. Còn hồn ma Đạm Tiên nói với Kiều khi nàng đang “thiêm thiếp giấc vàng” trên chiếc bè của Vãi Giác Duyên: Rằng tôi đã có lòng chờ/ Mất công mười mấy năm thừa ở đây. Cho hồn ma Đạm Tiên và gia nô của Hoạn Thư xưng là điều khác thường trong văn học viết thời đại Nguyễn Du. Tuy nhiên, việc xưng tôi của hai nhân vật trên với sắc thái biểu cảm bình thường, trung tính, không có gì đáng bàn. Riêng cách xưng tôi của Thúc Sinh, Hoạn Thư, Kim Trọng và đặc biệt là Thúy Kiều đều ít nhiều thể hiện bản lĩnh và ý thức cá nhân của các nhân vật ấy.

Tranh của họa sĩ Ngọc Mai - Ảnh: internet


Bây giờ ta thử điểm qua cách xưng tôi của ba nhân vật: Thúc Sinh, Hoạn Thư và Kim Trọng.

Chàng Thúc xưng tôi với viên quan xử vụ Thúc Ông kiện nàng Kiều:

Tại tôi hứng lấy một tay,
Để nàng cho đến nỗi này vì tôi.


Người đời chỉ thấy cái tính nhát gan của Thúc Sinh nhưng đã mấy ai đứng trước công đường dám nhận tội thay cho bị can như chàng? Cách xưng tôi với viên quan xử kiện, chứng tỏ chàng Thúc cũng chẳng phải tay vừa!

Vợ Thúc Sinh là Hoạn Thư còn ghê gớm hơn. Bị giải ra trước vành móng ngựa, mặc dù đã “hồn lạc phách xiêu”, Hoạn Thư vẫn đủ khôn ngoan để “lựa lời kêu ca”:

Rằng: tôi chút phận đàn bà
Ghen tuông thì cũng người ta thường tình


Hoạn Thư xưng tôi với Thúy Kiều - người đang ngồi uy nghi trên ghế chánh án. Đúng là “đàn bà dễ có mấy tay” như Hoạn Thư.

Chàng Kim Trọng, khi nghe Vương Ông kể lại việc Kiều phải bán mình chuộc cha đã vô cùng ân hận:

Rằng: Tôi trót quá chân ra,
Để cho đến nỗi trôi hoa dạt bèo.


Và chàng quyết tâm tìm bằng được người yêu:

Bao nhiêu của mấy ngày đàng,
Còn tôi, tôi một gặp nàng mới thôi!


Cách nói của chàng cũng phần nào thể hiện ý thức trách nhiệm của một đấng nam nhi trước số phận bất hạnh của Thúy Kiều.

Trong các nhân vật xưng tôi thì cái cách xưng tôi của nhân vật Thúy Kiều là đáng bàn hơn cả.

Chữ tôi xuất hiện lần thứ nhất trong Truyện Kiều nằm ở câu 704 (lúc nàng Kiều ngồi dưới ngọn đèn khuya, thổn thức nghĩ đến chàng Kim):

Phận dầu, dầu vậy cũng dầu,
Xót lòng đeo đẳng bấy lâu một lời!
Công trình kể biết mấy mươi.
Vì ta khăng khít, cho người dở dang.
Thề hoa chưa ráo chén vàng,
Lỗi thề thôi đã phụ phàng với hoa.
Trời Liêu non nước bao xa.
Nghĩ đâu rẽ cửa chia nhà tự tôi.


Câu Vì ta khăng khít, cho người dở dang là Kiều nói với chính mình, còn câu: Nghĩ đâu rẽ cửa chia nhà tự tôi là nàng đang nói với bóng hình Kim Trọng. Nếu Truyện Kiều được viết trước bài thơ Ốc nhồi thì chữ tôi này có thể là chữ tôi theo nghĩa đại từ nhân xưng xuất hiện lần đầu tiên trên thi đàn Việt Nam. Mặc dù mới xuất hiện nhưng nó không hề “bỡ ngỡ” chút nào, bởi Nguyễn Du đã đưa nó vào tác phẩm văn chương một cách hết sức tự nhiên, như lời ăn tiếng nói thường ngày. Với việc lựa chọn xưng tôi, nàng Kiều đã trở thành nàng Kiều của Nguyễn Du, nàng Kiều của Việt Nam chứ không còn là nàng Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân bên Trung Quốc nữa. Nhà thơ đã để cho Thúy Kiều ý thức một cách sâu sắc về trách nhiệm cá nhân của mình đối với người yêu.

Khi Kiều sập bẫy, mụ Tú Bà đã đánh Kiều đến mức “uốn lưng thịt đổ, cất đầu máu sa”, nàng phải đau đớn xin mụ từ bỏ “chút lòng trinh bạch” của mình:

Rằng: Tôi chút phận đàn bà,
Nước non lìa cửa, lìa nhà, đến đây.
Bây giờ sống chết ở tay,
Thân này đã đến thế này thì thôi!
Nhưng tôi có sá chi tôi,
Phận tôi đành vậy, vốn người để đâu?
Thân lươn bao quản lấm đầu,
Chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa!


Việc Kiều xưng tôi với mụ Tú Bà là hết sức bất ngờ. Xét về tuổi tác, địa vị mụ Tú là kẻ bề trên. Thông thường vào hoàn cảnh của Kiều, nàng phải xưng “con” mới đúng (như trong Kim Vân Kiều truyện). Với việc xứng tôi, Kiều đã đặt mình ngang hàng với mụ. Mặc dù nàng đang quằn quại bởi trận đòn hết sức tàn nhẫn nhưng trong cách xưng tôi, chứng tỏ nàng không hề che giấu thái độ coi thường đối với mụ. Đó là cái tôi đầy bản lĩnh của Kiều. Chữ tôi trong câu: Phận tôi đành vậy, vốn người để đâu? vừa là đại từ vừa là danh từ (có thể hiểu phận của tôi hay phận tôi đòi đều được).

Kiều xưng tôi với Thúc Sinh, khi chàng Thúc cố thuyết phục nàng làm vợ lẽ:

Bấy lâu khăng khít dải đồng,
Thêm người người cũng chia lòng riêng tây.
Vẻ chi chút phận bèo mây,
Làm cho bể ái khi đầy khi vơi.
Trăm điều ngang ngửa vì tôi,
Thân sau ai chịu tội trời ấy cho?


Bình thường, khi chuyện trò với Thúc Sinh, Kiều vẫn xưng thiếp: Đành thân phận thiếp ngại danh giá chàng… nhưng sao trong trường hợp này nàng lại xưng tôi? Phải chăng lúc này, tuy đang nói với Thúc Sinh nhưng Kiều lại nghĩ nhiều đến Hoạn Thư. Nàng sợ mình phá mất cái tổ ấm của người đàn bà đầy quyền lực ấy? Cách xưng hô tôi một lần nữa thể hiện ý thức cá nhân của Kiều trong việc tôn trọng hạnh phúc của người khác.

Còn đây là lời Thúy Kiều thuyết phục Thúc Sinh trở lại quê nhà thú thật với Hoạn Thư để tránh hậu họa về sau:

Đôi ta chút nghĩa đèo bòng,
Đến nhà trước liệu nói sòng cho minh.
Dù khi sóng gió bất bình,
Lớn ra uy lớn tôi đành phận tôi.


Câu: Lớn ra uy lớn tôi đành phận tôi, có thể hiểu theo nhiều cách khác nhau mà cách nào nghe cũng hợp tình, hợp lý. Nếu “lớn” là bà chủ (Hoạn Thư) thì phận tôi đòi đành thủ phận tôi đòi (Kiều). Nếu “lớn” là vợ cả (Hoạn Thư) thì tôi (Kiều) là vợ bé đành thủ phận vợ bé. Nếu xem chữ tôi đứng trước là đại từ nhân xưng, chữ tôi đứng sau là danh từ thì câu này còn có nghĩa: Hoạn Thư là vợ cả, tôi (Kiều) đành thủ phận làm kiếp tôi đòi. Thế mới biết cách chơi chữ “đồng âm, dị nghĩa” của Nguyễn Du tài tình đến mức nào!

Chỉ xét riêng về việc sử dụng chữ tôi theo nghĩa đại từ nhân xưng với tần số xuất hiện ấn tượng như thế, với ý thức cá nhân mạnh mẽ như thế, với cách chơi chữ biến hóa như thế (trong khi chữ tôi hầu như vắng bóng trong văn học Trung đại nước nhà), Truyện Kiều có thể được xem là một “ngoại lệ”. Và Nguyễn Du đúng là một “bậc kỳ tài”, một đại thi hào đi trước thời đại.

M.V.H  
(SH304/06-14)


 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HOÀNG TẤT THẮNG                1. Chủ tịch Hồ Chí Minh không phải chỉ là một vị lãnh tụ, một người thầy kiệt xuất của phong trào cách mạng Việt mà còn là một nhà thơ, nhà văn xuất sắc trong nền văn học Việt hiện đại. Bác Hồ chưa bao giờ có ý định trở thành nhà thơ, nhà văn, song các tác phẩm thơ văn ngôn ngữ của Người đã trở thành một mẫu mực, một phong cách đặc biệt cho các thế hệ người Việt tiếp tục nghiên cứu và học tập.

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔNĐề tài và chủ đề là hai trạng thái cơ bản nhất, bao dung hết thảy làm nên cấu trúc tổng thể tác phẩm tiểu thuyết. Hai trạng thái đó trong liên kết tương tác gây dẫn nên tất cả những yếu tố ý nghĩa nội hàm tiểu thuyết. Chúng còn đồng thời gây dẫn nên những yếu tố ý nghĩa liên quan nảy sinh trong tư duy tiếp nhận ngoài ý nghĩa nội hàm tiểu thuyết. Nhưng dẫu có như thế, chỉ có thể hình dung cho đúng đắn được đề tài, chủ đề theo định hướng duy nhất thấy chúng trong cấu trúc nội bộ tổng thể tác phẩm tiểu thuyết.

  • NGUYỄN HỒNG DŨNGQuá trình “hiện đại hoá” văn học Việt Nam giai đoạn 1932 - 1945 diễn ra dưới sự tác động trực tiếp của văn học phương Tây. Gần một thế kỷ nay, khi nghiên cứu những tác động từ bên ngoài vào Việt Nam giai đoạn này các nhà ngữ văn chỉ chủ yếu nhấn mạnh đến ảnh hưởng của văn học Pháp. Trong bài viết này, chúng tôi đề cập đến ảnh hưởng của nhà thơ Mỹ Edgar Poe đối với Hàn Mặc Tử, một đỉnh cao của phong trào “thơ mới”.

  • PHẠM PHÚ PHONG            Tiểu thuyết, đó là một trong những sáng tạo kỳ diệu của con người, đó là một đồ dùng, một vũ khí của con người để tìm hiểu, chinh phục dần thế giới và để tìm hiểu nhau và sống với nhau.                                                                                       Nguyễn Đình Thi

  • PHONG LÊ(Trích - Nhìn từ các mục tiêu của công việc “viết”)

  • NGÔ TỰ LẬPTrong thời gian làm luận án ở École Normale Supérieure de Fontenay/ Saint Cloud , tôi được nghe một câu chuyện thú vị. Trong nhà giam nọ, đám tù khổ sai, sau mỗi ngày lao động như trâu ngựa dưới đòn roi của cai ngục, chỉ có một thú tiêu khiển là nghe một người trong bọn họ kể chuyện tiếu lâm.

  • HỒ THẾ HÀTrần Vàng Sao là nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ. Thơ anh là tiếng nói giàu nhiệt huyết, xuất phát từ đáy lòng, hướng đến mọi người bằng giọng điệu giãi bày, tâm tình, chia sẻ. Anh sáng tác không nhiều, nhưng mỗi tác phẩm của anh để lại dấu ấn thi pháp độc đáo, đặc biệt ở việc xây dựng tứ thơ và kiến trúc bài thơ, ở hình ảnh và sức liên tưởng bất ngờ.

  • NGUYỄN HUỆ CHI     Trần Thanh Mại (1908-1965) là một nhà văn xứ Huế, một tên tuổi trong giới nghiên cứu, phê bình và sáng tác từ trước Cách mạng tháng Tám. Những cuốn sách ông viết rải rác trong vòng 30 năm như Tuy Lý vương, Hàn Mạc Tử, Trông giòng sông Vị, Tú Xương con người và nhà thơ... đã từng gây được ấn tượng lúc mới ra đời và đến nay vẫn còn nhiều phần giá trị. Những phát hiện của ông về Hồ Xuân Hương, Miên Thẩm đã từng gây xôn xao một thời mà sự tiếp nối của người sau cũng chưa thể nói là đã vượt qua.

  • ĐẶNG TIẾNTừ điển Nghệ Thuật Hát Bội Việt Nam do Giáo sư Nguyễn Lộc chủ biên, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, ấn hành năm 1998, gồm non 700 trang khổ lớn 15x23cm, in đẹp, bìa cứng tổng hợp đầy đủ kiến thức về ngành ca kịch hát bội, còn gọi là hát bộ, hay tuồng, hay tuồng cổ.

  • THÁI DOÃN HIỂUGiữa ngổn ngang những dữ kiện, con số, tiền nong, ngành Ngân hàng Việt vẫn hào hiệp tặng cho thi đàn ra một hồn thơ tinh tế: Nguyễn Ngọc Oánh.Trong thi sĩ Nguyễn Ngọc Oánh có hai con người: một trẻ và một già!

  • NGÔ ĐỨC TIẾNNăm 1989, báo Văn nghệ tổ chức cuộc thi thơ kéo dài trong 2 năm, tôi có gửi 5 bài thơ dự thi. Thơ gửi đi rồi, chưa mong được giải, chỉ mong được in báo Văn nghệ một vài bài vì trước đó tôi cũng đã nhiều lần gửi báo Văn nghệ nhưng chỉ được in một bài thơ “Giọng Nghệ”.

  • TRẦN THÁI HỌC(Nhân đọc Sông Hương phê bình và đối thoại - Nxb văn hoá thông tin - 2003)

  • MAI BÁ ẤNNgoài sáng tác, hơn mười năm trở lại đây, Thanh Thảo còn xuất hiện với tư cách là một người viết tiểu luận - phê bình được bạn đọc rất chú ý bởi giọng văn sắc sảo với những phát hiện độc đáo, mới mẻ. Nhìn chung, phong cách viết tiểu luận-phê bình của Thanh Thảo khá nhất quán nhằm mục đích tìm ra cái hay cái độc đáo của tác phẩm văn học mà không ồn ào tranh luận, không nặng nề về lý thuyết nhưng có độ bền về tính triết lý.

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔNPhê bình văn học là một hình thái vận động của đời sống văn hóa văn học. Nó không phải là một thể loại văn học. Nó gắn bó huyết mạch tất yếu với vận động sáng tạo - hưởng thụ văn học.

  • HƯƠNG GIANG - PHẠM PHÚ PHONGLịch sử nói chung phán xét những gì đã qua, nhưng lịch sử nghệ thuật thì  phán xét những gì còn lại. (Thái Bá Vân)

  • VÕ TẤN CƯỜNGCon đường của thi ca và cái nhìn của nhà thơ thời hiện đại đang hướng tới tầm cao mới và cả chiều sâu thẳm bí ẩn của vô ngã ẩn khuất dưới bao biến động dữ dội của những thể chế chính trị, giáo lý và các phát minh khoa học kỹ thuật.

  • PHONG ĐIỆPXã hội hoá giải thưởng - và chuyện kiếm tiền “nuôi thơ” thời bão giá

  • CHÂU MINH HÙNGLối viết chỉ là Tự do trong một khoảnh khắc. Nhưng đó là một trong những khoảnh khắc có ý nghĩa nhất của Lịch sử, bởi Lịch sử luôn luôn và trước hết là một lựa chọn và những giới hạn của lựa chọn ấy.                                      (R. Barthes, Độ không của lối viết)

  • TRẦN THIỆN KHANHTích nhân/  dĩ thừa/  hoàng hạc khứThử địa/  không dư/  Hoàng Hạc lâuHoàng hạc/ nhất khứ/  bất phục phảnBạch vân/ thiên tải/ không du du…

  • PHẠM THỊ THÚY VINHThơ Lâm Thị Mỹ Dạ rất giàu hình ảnh. Thế giới hình ảnh trong thơ chị vừa đậm sắc màu hiện thực, ngồn ngộn hơi thở cuộc sống vừa mang tính biểu tượng cao. Điều đó đã thể hiện tài năng và sự khéo léo của nhà thơ, nhằm làm cho những bài thơ của mình không chỉ dừng lại ở những lời thuyết lí khô khan, trừu tượng. Thế giời hình ảnh bao giờ cũng gợi ra trong trí tưởng tượng của người đọc nhiều liên tưởng bất ngờ và thú vị, làm cho lời thơ thêm mượt mà, trong sáng.