Chỗ dành cho sự sống thanh xuân

15:10 03/03/2010
NGUYỄN THANH HÙNGLý do để có thể còn viết được những cái như là hiển nhiên rồi, thật ra có nhiều. Nói về văn thơ tức là nói về cuộc đời, về sự sống dù chỉ nói được một phần rất nhỏ của cả một vũ trụ đang trong cơn say biến đổi, mà đã thấy choáng ngợp lắm rồi.

Ngay tác phẩm văn học cũng vậy nếu căn cứ vào những gì diễn ra bên trong, những gì tạo nên những liên hệ ràng buộc nhau, tung hứng và nạp thêm sức sống cho nhau cũng đã đủ là một vũ trụ nữa rồi. Chức năng dẫn dắt độc giả của thi ca không chỉ đưa họ đi qua những bậc thang nhìn thấy để đến những nấc thang không hề có, không thể thấy, ấy mới đích thực là văn chương.

Sinh thời với lối chiêm nghiệm siêu hình luôn bực bõ với “biển cồn” tư tưởng về thi ca của mình Chế Lan Viên đã từng chân thật :

            “Với sự sống ba chiều, lên trang thơ hai mặt phẳng...
            Phát giác sự việc ở bề chưa thấy
            Ở cái bề sâu, ở cái bề sau, ở cái bề xa”

Trong mọi điều có thể nói về sự kỳ diệu của văn chương mà tôi tin đó chính là sức cám dỗ và tác động đến người đọc, tra vấn và đưa họ vào những thử thách mới lạ về tình người để họ bộc lộ con người mình thật nhất. Trong sâu xa, nhà văn muốn làm bạn với mọi người. Muốn khám phá để hiểu người và cũng khát khao muốn được hiểu mình.

Nhà văn biết dù có nói gì thì cũng không ngoài việc đời, việc người của cái “cõi nhân gian bé tí”. Cái lạ, cái hấp dẫn và làm người đọc phải suy nghĩ là cách nói của nhà văn. Muốn có được cách nói của riêng mình, nhà văn phải có một quan niệm rõ ràng về cuộc sống đời người. Đó là tư tưởng nhân sinh, dù nói về một chiếc lá trong thơ cũng có hương tư tưởng. Cách nói không phải chỉ là hình thức diễn đạt mà còn là sự phát hiện có nội dung cho nội dung toàn vẹn. Cách nói như thế rất giàu trí tuệ. Không giàu suy nghĩ không có văn thơ.

Chế Lan Viên, người cách tân tư tưởng cho thơ đã băn khoăn rất sớm về khả năng viết và cách viết của mình. Năm 1954 Chế Lan Viên hỏi nhà thơ trẻ: “Ông đọc thơ mình xem mình có còn viết được nữa không” Đủ biết để có được cách viết của mình không bao giờ là dễ dãi để có thể chạm khắc vào trí nhớ, vào xúc động rộn ràng dằn vặt ở người nghe và để đem “tất cả cái bên trong tạo hình thức bên ngoài”. Cách viết thực sự là một cách tạo hình trên trang giấy trắng. Lúc ấy nội dung cuộc đời thực đã biến đâu mất cả chỉ còn lại tài năng. “Nhìn trang giấy biết mình hữu hạn”.

Cái khả năng nói hết mọi điều (Le pouvoir de tout dire) của nhà văn thơ là có thể khi so với các loại hình nghệ thuật khác, khi hội đủ tư tưởng và tài năng. Mặt khác cũng là không thể khi nghệ sĩ ngôn từ chỉ có một cái tạng của mình.

Nhiều nhà nghiên cứu tỏ ra nghi ngờ khái niệm tác phẩm và tác giả, muốn thay thế chúng bằng văn bản và người viết. Nói tác phẩm nghe ra đã hoàn thiện và chấm dứt một quá trình sản sinh. Còn nếu dùng khái niệm văn bản thì sẽ gợi đến tính chất chưa hoàn tất và còn phụ thuộc vào tất cả mọi người. Tác phẩm văn học thuộc về một thời đại đang phát triển, nó dành chỗ cho một khoa học thanh xuân đang nẩy sinh. Đó là khoa học về cách viết.

Cách viết sinh ra từ cái cách nói của con người là một đặc điểm trong thi pháp sáng tạo của nhà văn. Cách viết một tác phẩm văn học là nơi biểu hiện sinh động giữa sự am hiểu lĩnh vực văn học và việc thể hiện sự hiểu biết ấy. Người viết phải tạo ra khả năng sản sinh văn bản và liên kết chúng lại trên cái trục của cách viết mà người đọc nhiều lứa tuổi, các thời, trăm ngàn tâm trạng với mục đích và trình độ văn hóa khác nhau đã lưu tâm, nhấn mạnh, cô đặc, biến đổi văn bản để có độ sâu sắc khác nhau.

Tư tưởng này đã được Bakhtin chia sẻ với khái niệm liên văn bản (intertextualité) và Kristêva nói thẳng ra “văn bản được xem xét như là sản phẩm của cách viết”.

Cách viết được hiểu theo nghĩa là một khả năng thì đó là sự chuyển hóa và tạo sinh liên tục nghĩa tương đồng, tồn tại ở phía sau sự biến đổi trong khi tiếp nhận tác phẩm.

Sự biến đổi đó biểu hiện thành những võ đoán của người đọc bổ sung cho nhau trong khoảng di động giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt. Cách viết của nhà văn và sự cảm nhận để biến đổi của người đọc mang tính chất liên tục. Nói một cách ấn tượng thì từ lời nói đến cách viết, đến cách đọc là một dòng chảy kích thích tâm lí con người nghĩ tới những hình ảnh và biểu tượng nào đó. Cách viết tạo ra một thứ ngữ pháp mềm dẻo đầy sức sinh sản. Đó là ngữ pháp nghệ thuật đang biến hóa lời nói trong vùng mờ chạng vạng chuyển dần sang bình minh. Cách viết trong tác phẩm văn học xét trong ý nghĩa bộ phận cũng như trong ý nghĩa tổng thể là cách tìm hiểu con người, và người đọc lại phán xét con người thông qua những gì do con người viết ra. Điều đáng nói nhất trong khi tìm hiểu tác phẩm văn chương chính là chỗ nhà văn có thể viết về con người với nỗi lòng tâm trạng, cảm thông nào đó. Rõ ràng giữa điều có thể viết ra và điều không thể viết ra về con người đã là một sự soi sáng của quan điểm nghệ thuật về con người bị chi phối bởi tư tưởng triết học, đạo đức và thẩm mĩ. Cách viết không còn héo mòn, cũ kĩ trong hình thức biểu hiện nữa mà nó luôn là sự hóa thân đáng trân trọng của sự tham gia lặng lẽ của hình tượng nhà văn. Đó là cách hồi qui trao trả những ám ảnh của cách viết, của hình thức đích thực trong văn chương trở về cho chúng cái chất liệu của chúng để hoàn thiện hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm. Nhờ vậy ta mới nhận ra rằng hình tượng nghệ thuật là một cái cây cần đến nguồn nuôi dưỡng nó, cần đến nội dung và hình thức một cách độc đáo nhất.

Nhà văn dù có tạo ra hình ảnh người đọc giả định trong sáng tạo tác phẩm vẫn không thể quả quyết chỉ có họ mới tiếp nhận tác phẩm của mình. Văn học không thể là sản phẩm ban tặng cho một nhóm bạn đọc. Sự thân thiện giữa nhà văn với một loại độc giả nào cũng chỉ là sự phản quang của tính giới hạn của tác giả. Sự lựa chọn để viết cho ai một cách cụ thể diễn ra trong ý thức trong ý thức chứ không thể đặt hiệu quả biết trước vào đối tượng phục vụ. Cách viết không nên và không bao giờ có giá trị cao nếu chỉ xuất phát từ người đọc mà đó là sự bảo hộ nhân cách và tài năng nhà văn. Cách viết thực chất đối với nhà nghệ sĩ ngôn từ chính là một cách tư duy về văn học.

Có một hiện tượng phổ biến với những nhà văn lớn là tình trạng dập xóa nhiều lần không thương tiếc bản thảo, ý nghĩa của điều vừa đơn giản vừa khó khăn đó là gì? Phải chăng đó là yêu cầu tối cao của “cách viết” phải đạt tới sự hài lòng trước hết của văn phong tác giả, của đạo đức nhà văn.

Cái mà một số người nào đó không chịu nổi, chính là tài năng trong cách viết, bởi vì “có những cách dùng chữ, viết văn tăng năng xuất cho ý” (Chế Lan Viên)

Sở dĩ tôi đặt vấn đề nghiêm túc trên những câu chữ ròng Việt như cái có, cái còn và cái cãi được trong văn vì tác phẩm văn chương là một “chỉnh thể nghệ thuật”. Nói chỉnh thể nghệ thuật là nói tới cái giới hạn tác phẩm được qui vào hình thức tồn tại của nó. Đấy là cái có của văn. Nhưng chỉnh thể nghệ thuật ngôn từ lại là một chỉnh thể vòng xuyến cứ rộng ra với người đọc, với phong cách nhà văn. Phong cách nào cũng là những ẩn dụ xen vào cấu trúc trần thế của tác giả nên nó có những khía cạnh lặng im của ký ức và nỗi lòng của bản thân nhà văn. Chính những gì không được nói ra rõ ràng vẫn có ý nghĩa biểu cảm của cách viết gợi ra từ độ sâu của ý nghĩa nội dung là cái còn để từng lúc lại được bàn cãi lại.

Nếu xem xét tác phẩm văn học trong mối quan hệ xã hội của nó có thể thấy cái có tồn tại trong văn chính là tài năng tác giả. Cái còn lại của tác phẩm chính là cái giá trị được bảo lưu trong tác phẩm và được người đọc đông đảo đưa ra ánh sáng. Cuối cùng, tác động đa hướng và nông sâu khác nhau của tác phẩm đến người đọc tạo nên sự trao đổi tranh luận không bao giờ kết thúc. Ây là cái cãi được trong văn.

Nhìn tác phẩm văn học theo chức năng có thể thấy cái có trong văn chương là sự thật cuộc đời. Sự thật ấy cần có quá trình nhận thức sâu sắc của nhà văn. Sự thật trong văn chương càng thật hơn nếu nó gắn liền với sự xúc động thật sự của tâm hồn nhà văn. Muốn có sự thật tâm hồn, nhà văn phải thấm nhuần sự cao cả của đạo đức để đứng giữa sự thật cuộc đời không bị lạc lối. Rắc rối nhất, kỳ công nhất vẫn là cách viết của nhà văn. Cái riêng của một người đem ra làm quà cho tất cả.

Tiếng bấc, tiếng chì, vui buồn, khen chê, yêu ghét tùm lum không phải là điều lạ, vì trong sự thưởng thức văn chương ít khi có ngay sự nhất trí, mà cần có sự hiểu biết về nghệ thuật.

Cái có trong văn chương có thể còn được nhìn nhận như là tiềm năng sáng tạo của tác phẩm - mà ngược mấy dòng trên tôi đã đề cập tới từ tài năng.

Cái còn lại trong văn chương chính là chiều sâu của tác phẩm. Chiều sâu ấy có liên quan đến năng lực khám phá sự thật cuộc sống theo một quan điểm tư tưởng nhân sinh và được tái hiện bằng cách viết. Nói cách khác, chiều sâu của tác phẩm văn học là chiều sâu của cách viết, của chiều sâu đạt được qua sáng tạo hình thức độc đáo của tác phẩm.

Cái cãi được trong văn, theo sự diễn đạt khác, chính là sức sống của tác phẩm tác động vô hồi vô hạn vào lịch sử tiếp nhận của độc giả. Có cái gì chung với sự tiếp nhận của nhiều người và cũng có cái gì riêng với từng sự tiếp nhận nên tác phẩm mới là khởi nguyên của sự bàn luận, tranh cãi để tái tạo nhiều lần tác phẩm và để nuôi dưỡng tâm hồn người đọc. Sự bàn cãi thật bổ ích từ văn chương.

Sự tranh cãi trong văn chương phải dựa vào chân lí nghệ thuật không cắt lìa với chân lý đời sống. Có rất nhiều cái khó khi tranh luận văn học để tìm ra chân lý trong văn .

Trong lĩnh vực văn chương, nghệ thuật, nếu ai dám đấu tranh với sự giả dối và xuyên tạc chân lý để khẳng định cái chân, thiện, mỹ của văn chương thì phải biết và vượt qua những khó khăn này: Một là phải dũng cảm viết về chân lý mặc dù chân lý đã được nói tới một nửa, hoặc đang bị số đông áp đặt. Đó là đạo đức và bản lĩnh nghề nghiệp. Hai là phải có đủ sự thông minh tài trí để nhận ra chân lý vì chân lý nghệ thuật đâu có dễ dàng phát hiện. Muốn tìm kiếm chân lý phải có phương pháp tốt như một điều kiện tiên quyết để khám phá chân lý nghệ thuật. Ba là phải có hiểu biết chắc chắn về nghệ thuật và kỹ xảo nắm vững chân lý văn học. Bốn là sự đánh giá chân lý nghệ thuật phải được suy nghĩ và lựa chọn chu đáo để có tác dụng tích cực tới quá trình văn học cho cả người sáng tác và người thưởng thức tác phẩm. Năm là phải có kế hoạch và cách thức làm sáng tỏ chân lý dưới nhiều bình diện và nhiều cách diễn đạt khác nhau.

Mấy điểm trên mới chỉ là điều kiện và yêu cầu để đi tìm chân lý văn chương. Còn xác định tiêu chuẩn của chân lý văn chương thế nào thì vượt quá sức một người trong một bài viết ngắn.

Tháng VI 1999
N.T.H
(132/02-2000)



 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN THÁI HỌCCó lẽ chưa bao giờ các vấn đề cơ bản của lý luận văn nghệ lại được đưa lên diễn đàn một cách công khai và dân chủ như khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. Vấn đề tuyên truyền trong nghệ thuật tuy chưa nêu thành một mục riêng để thảo luận, nhưng ở nhiều bài viết và hội nghị, chúng ta thấy vẫn thường được nhắc tới.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO...Một câu ngạn ngữ Pháp nói rằng: “Khen đúng là bạn, chê đúng là thầy”. Câu ngạn ngữ này đúng trong mọi trường hợp, và riêng với văn học, Hoài Thanh còn vận thêm rằng: “Khen đúng là bạn của nhà văn, chê đúng là thầy của nhà văn”...

  • BẢO CHI                 (lược thuật)Từ chiều 13 đến chiều 15-8-2003, Hội nghị Lý luận – Phê bình văn học (LL-PBVH) toàn quốc do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức đã diễn ra tại khu nghỉ mát Tam Đảo có độ cao 1.000 mét và nhiệt độ lý tưởng 23oc. Đây là hội nghị nhìn lại công tác LL-PBVH 28 năm qua kể từ ngày đất nước thống nhất và sau 54 năm Hội nghị tranh luận Văn nghệ tại Việt Bắc (1949). Gần 200 nhà LL-PB, nhà văn, nhà thơ, nhà báo và khách mời họp mặt ở đây đã làm nóng lên chút đỉnh không khí ôn hoà của xứ lạnh triền miên...

  • ĐỖ LAI THÚY                Văn là người                                  (Buffon)Cuốn sách thứ hai của phê bình văn học Việt Nam, sau Phê bình và cảo luận (1933) của Thiếu Sơn, thuộc về Trần Thanh Mại (1911 - 1965): Trông dòng sông Vị (1936). Và, mặc dù đứng thứ hai, nhưng cuốn sách lại mở đầu cho một phương pháp phê bình văn học mới: phê bình tiểu sử học.

  • ĐẶNG TIẾNThuật ngữ Thi Học dùng ở đây để biểu đạt những kiến thức, suy nghĩ về Thơ, qua nhiều dạng thức và trong quá trình của nó. Chữ Pháp là Poétique, hiểu theo nghĩa hẹp và cổ điển, áp dụng chủ yếu vào văn vần. Dùng theo nghĩa rộng và hiện đại, theo quan điểm của Valéry, được Jakobson phát triển về sau, từ Poétique được dịch là Thi Pháp, chỉ chức năng thẩm mỹ của ngôn từ, và nới rộng ra những hệ thống ký hiệu khác, là lý thuyết về tính nghệ thuật nói chung. Thi Học, giới hạn trong phạm vi thi ca, là một bộ phận nhỏ của Thi Pháp.

  • TRẦN CAO SƠNTriều Nguyễn tồn tại gần 150 năm, kể từ khi Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế với niên hiệu Gia Long - năm1802, tạo dựng một đế chế tập quyền trên toàn bộ lãnh thổ mà trước đó chưa hề có. Trải qua một thế kỷ rưỡi tồn tại, vinh hoa và tủi nhục, Triều đại Nguyễn là một thực thể cấu thành trong lịch sử Đại Việt. Những cái do triều đình Nhà Nguyễn mang lại cũng rất có ý nghĩa, đó là chấm dứt cuộc nội chiến, tranh giành quyền lực, xương trắng máu đào liên miên mấy thế kỷ, kiến tạo bộ máy quản lý hành chính trung ương tập quyền thống nhất mà Quang Trung - Nguyễn Huệ đã dày công vun đắp gây dựng trước đó. Dân tộc đã phải trải qua những năm tháng bi hùng với nhiều điều nuối tiếc, đáng bàn đáng nói ngay ở chính hôm nay. Song lịch sử là lịch sử, đó là một hiện thực khách quan.

  • TRẦN HUYỀN SÂMNếu nghệ thuật là một sự ngạc nhiên thì chính tiểu thuyết Thập giá giữa rừng sâu là sự minh định rõ nhất cho điều này. Tôi bàng hoàng nhận ra rằng, luận thuyết: con người cao quý và có tình hơn động vật đã không hoàn toàn đúng như lâu nay chúng ta vẫn tin tưởng một cách hồn nhiên. Con người có nguy cơ sa xuống hàng thú vật, thậm chí không bằng thú vật, nếu không ý thức được giá trị đích thực của Con Người với cái tên viết hoa của nó. Phải chăng, đây chính là lời nói tối hậu với con người, về con người của tác phẩm này?

  • HOÀNG NGỌC HIẾN           ...Từ những nguồn khác nhau: đạo đức học, mỹ học, triết học xã hội-chính trị, triết học xã hội-văn hoá... cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình văn học là nỗ lực vượt lên trên những thành kiến và định kiến hẹp hòi trong sinh hoạt cũng như trong học thuật. Những thành kiến, định kiến này có khi lại được xem như những điều hiển nhiên. Mà đã là “hiển nhiên” thì khỏi phải bàn. Đây cũng là một thói quen khá phổ biến trong nhân loại. Cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình có khi bắt nguồn từ suy nghĩ về chính những điều “hiển nhiên” như vậy...

  • THÁI DOÃN HIỂUVào đời, Lưu Quang Vũ bắt đầu làm thơ, viết truyện, rồi dừng lại nơi kịch. Ở thể loại nào, tài năng của Vũ cũng in dấu ấn đậm đà làm cho bạn đọc cả nước đi từ ngạc nhiên đến sửng sốt. Thơ Lưu Quang Vũ một thời được lớp trẻ say sưa chép và thuộc. Kịch Lưu Quang Vũ một thời gần như thống trị sân khấu cả nước.

  • TRẦN THANH ĐẠMTrong lịch sử nước ta cũng như nhiều nước khác, thời cổ - trung đại cũng như thời cận - hiện đại, mỗi khi một quốc gia, dân tộc bị xâm lược và chinh phục bởi các thế lực bên ngoài thì trong nước bao giờ cũng phát sinh hai lực lượng: một lực lượng tìm cách kháng cự lại nạn ngoại xâm và một lực lượng khác đứng ra hợp tác với kẻ ngoại xâm.

  • ĐỖ LAI THUÝLTS: Trong số tháng 5-2003, Sông Hương đã dành một số trang để anh em văn nghệ sĩ Huế "tưởng niệm" nhà văn Nguyễn Đình Thi vừa qua đời. Song, đấy chỉ mới là việc nghĩa.Là một cây đại thụ của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam, Nguyễn Đình Thi toả bóng trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Bằng chứng qua các bài viết về ông sau đây, Sông Hương xin trân trọng dành thêm trang để giới thiệu sâu hơn, có hệ thống hơn về Nguyễn Đình Thi cùng bạn đọc.

  • ĐẶNG TIẾN…Nguyễn Đình Thi quê quán Hà Nội, nhưng sinh tại Luang Prabang, Lào, ngày 20/12/1924. Từ 1931 theo gia đình về nước, học tại Hải Phòng, Hà Nội. Năm 1941 tham gia Thanh Niên cưú quốc, 1943 tham gia Văn hóa cứu quốc, bị Pháp bắt nhiều lần. Năm 1945, tham dự Quốc Dân Đại hội Tân Trào, vào Ủy ban Giải phóng Dân tộc. Năm 1946, là đại biểu Quốc hội trẻ nhất, làm Ủy viên Thường trực Quốc hội, khóa I…

  • HỒ THẾ HÀ          Hai mươi lăm năm thơ Huế (1975 - 2000) là một chặng đường không dài, nhưng nó diễn ra trong một bối cảnh lịch sử - thi ca đầy phức tạp. Cuộc sống hàng ngày đặt ra cho thể loại những yêu cầu mới, mà thơ ca phải làm tròn sứ mệnh cao cả với tư cách là một hoạt động nhận thức nhạy bén nhất. Những khó khăn là chuyện đương nhiên, nhưng cũng phải thấy rằng bí quyết sinh tồn của chính thể loại cũng không chịu bó tay. Hơn nữa, đã đặt ra yêu cầu thì chính cuộc sống cũng đã chuẩn bị những tiền đề để thực hiện. Nếu không, mối quan hệ này bị phá vỡ.

  • JAMES REEVESGần như điều mà tôi hoặc bất kỳ nhà văn nào khác có thể nói về một bài thơ đều giống nhau khi nêu ra ấn tượng về điều gì đấy được in trên giấy. Tôi muốn nhấn mạnh rằng đây không phải là toàn bộ sự thật. Việc in trên giấy thực ra là một bài thơ gián tiếp. Sẽ dễ dàng thấy điều này nếu chúng ta đang nói về hội hoạ hoặc điêu khắc.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP...Nguyễn Huy Thiệp không phải là người duy nhất đổi mới phương thức trần thuật. Trước ông đã có Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng... tích cực mở đường. Nhưng phải đến Nguyễn Huy Thiệp thì sự khai phóng về tư tưởng nghệ thuật mới được thể hiện một cách đậm nét. Tất cả được Nguyễn Huy Thiệp kiến tạo qua một trò chơi đầy tính bất ngờ. Giống như người nghệ sĩ ba lê tài năng, Nguyễn Huy Thiệp trình diễn một thế giới đa sắc trên đầu những đầu mũi ngón chân. Những ngón chân ấy bám trụ vào hiện thực một cách tinh diệu, xoay chuyển một cách nhịp nhàng với những vòng quay, những vũ điệu ngôn từ...

  • PHAN NGỌC THUTrong nền văn học Việt Nam thế kỷ XX, Xuân Diệu (1916-1985) là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất, đồng thời cũng là nhà phê bình văn học kiệt xuất. Từ những bài tranh luận văn học sôi nổi thời Thơ Mới (1932-1945) đến Tiếng thơ (1951), Những bước đường tư tưởng của tôi (1958); từ Phê bình giới thiệu thơ (1960) đến Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ (1961), Dao có mài mới sắc (1963), Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy (1978), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập I (1981), tập II (1982) và Công việc làm thơ (1984)... "chỉ tính riêng các tác phẩm lý luận phê bình, đã có thể gọi Xuân Diệu là một đại gia"(1)

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng đáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v..v...

  • HÀ KHÁNH CHINgày 20 - 3 - 2003, siêu cường lớn nhất mọi thời đại là đế quốc Hoa Kỳ đã mở đầu cuộc chiến tranh kỳ quái nhất trong lịch sử bằng cách tấn công Iraq sau khi đã bắt quốc gia này phải tự phá huỷ vũ khí tự vệ của chính họ. Đó là bài học chưa hề thấy về chút hy vọng cuối cùng mà lương tri nhân loại có thể đòi hỏi. Để có thể hiểu rõ hơn những gì đang xảy ra hôm nay - có lẽ cũng rất cần ôn lại một trong những vấn đề lớn nhất mà loài người có thể nghĩ tới: cuộc chiến tranh Việt Nam đã kết thúc cách đây gần 30 năm.

  • HOÀNG ĐĂNG KHOA Văn học Việt từ sau 1975, nhất là từ thời kỳ đổi mới, là một quá trình văn học rất phong phú, đa dạng và không ít phức tạp, lại còn đang tiếp diễn. Cuốn sách Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy ra đời đáp ứng nhu cầu mang tính thời sự: nhu cầu nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, toàn diện về tiến trình văn học ba mươi năm qua, chuẩn bị cho sự ra đời của những công trình văn học sử và những chuyên khảo về giai đoạn văn học này.

  • NGUYỄN QUANG HÀTrong đời có những bài thơ người ta quên, mà chỉ nhớ một câu nằm lòng. Bởi đó là những câu thơ thực sự, những câu thơ thi sĩ. Từ xưa đến nay, đã có rất nhiều định nghĩa về thơ: Thơ là tiếng hát của trái tim; Thơ là hạt muối kết tinh của tình cảm; Thơ là phút giây rung động của tâm hồn... Nói chung, những định nghĩa ấy cho ta hiểu rằng ở đâu có được sự rung động của trái tim thì ở đó có thơ.