Chỉnh lý lời ca chữ Hán của một bài bản Ca Huế

08:55 10/08/2022

PHAN THUẬN THẢO

Ca Huế là thể loại âm nhạc thính phòng dành cho giới danh gia vọng tộc, tao nhân mặc khách của Huế xưa. Thời điểm ra đời của Ca Huế không được ghi trong sử sách, song nhiều học giả đã dựa trên một số chứng cứ văn hóa - xã hội để đoán định rằng nó bắt đầu hình thành dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu (1691 - 1725).

Ảnh: internet

Dù sao, những tài liệu ghi chép về Ca Huế bằng chữ Hán đã xuất hiện vào thế kỷ XIX, khi Huế là kinh đô và Ca Huế đã trở thành một thú chơi tao nhã phổ biến trong giới quý tộc, tao nhân mặc khách ở Huế. Từ đó, Ca Huế đã lan tỏa mạnh mẽ ra dân gian và rồi tiếp tục cuộc hành trình ra khỏi không gian xứ Huế để tiến ra Bắc, vào Nam. Với những thay đổi của thời cuộc, cũng như bao thể loại âm nhạc cổ truyền khác, Ca Huế đã trải qua bao thăng trầm cho đến ngày hôm nay.

Điểm qua một số thông tin về lịch sử của Ca Huế như trên không ngoài mục đích làm rõ luận điểm Ca Huế có một lịch sử lâu dài và đã trải qua nhiều thay đổi, trong đó có sự thay đổi về ca từ. Theo những tài liệu có được, Ca Huế phát triển trong thế kỷ XIX là lúc chữ Hán được dùng làm chữ viết chính thức ở nước ta. Từ các văn bản hành chính nhà nước đến rất nhiều tác phẩm văn học, sử học, nghệ thuật đều sử dụng chữ Hán (bên cạnh một số tác phẩm chữ Nôm). Trong bối cảnh đó, Ca Huế - thể loại âm nhạc dành cho giới thượng lưu, học thức - hẳn nhiên cũng đã dùng chữ Hán với lối phát âm Hán Việt bên cạnh lời ca thuần Việt. Các tài liệu của thế kỷ XIX chép lời Ca Huế mà chúng tôi sưu tầm được như Di tình nhã điệu của tác giả khuyết danh được ghi bằng chữ Hán, Đại Nam quốc âm ca khúc của Nguyễn Công Trứ (1778 - 1858) soạn1 cũng có nhiều bài ghi bằng chữ Hán (dĩ nhiên phần giai điệu âm nhạc cũng được ghi bằng hệ thống chữ Hán theo lối cổ). Bước sang thế kỷ XX, khi chữ quốc ngữ trở nên phổ biến thì các lời ca Huế được ghi chép, in ấn bằng chữ quốc ngữ với lối phát âm thuần Việt.

Bài viết này được thực hiện tiếp nối theo mạch của bài viết “Từ Kê Khang đến Lộng điệp - Câu chuyện về một bài bản Ca Huế” đăng trên Tạp chí Sông Hương số tháng 4/2022, trong đó, chúng tôi đã chứng minh rằng bài “Kê Khang” trong sách nhạc phổ Di tình nhã điệu có từ thế kỷ XIX là tiền thân của bài “Lộng điệp” hiện nay. Vấn đề đặt ra tiếp theo là lời ca chữ Hán của bài “Lộng điệp” đang lưu truyền hiện nay là một phiên bản sai vì bị “tam sao thất bản” sau quá trình truyền thừa qua nhiều thế hệ. Cho nên, từ nhiều thập kỷ nay, nghệ nhân, nghệ sĩ hát mà không hiểu lời ca ấy nghĩa là gì. Đến nay, sau khi tìm ra một số tài liệu lịch sử, chúng tôi nhận thấy đã có đủ cơ sở để tiến hành việc chỉnh lý phần lời ca ấy. Chúng tôi xin nêu ra trong bài viết này để người đọc và cả các nghệ nhân, nghệ sĩ rộng đường tham khảo.

A. Lời ca bài “Lộng điệp”

Trong thập niên 1990, bản thân chúng tôi đã tìm đến học Ca Huế từ nghệ nhân Minh Mẫn (1925 - 2018). Bà đã dạy chúng tôi ca bài “Lộng điệp” cả lời Hán lẫn lời Việt. Phần lời Hán mà chúng tôi được truyền dạy như sau2:

1. Xuân sắc lai thiên địa
2. Toàn khiến ba3 khai
3. Thiều quang hề
4. Lộng hề thiều quang
5. Ðiệp mê ba
6. Phân thân, phân thân viên thượng, mùi tượng hoàn, tượng hoàn.
7. Xứ ba phỏng, xứ xứ ba phỏng,
8. Phiêu phiêu trăng phi
9. Xuân dứt chi giai mỹ
10. Ðiệp thanh ca, thượng thì thanh ca
11. Tuyết ba hữu khách, đạo ái viên
12. Song tuyền loan ái, khoan khoan thứ
13. Hồng ba nhã thảo, tương lai tương vãng
14. Kinh khứ, ba phỏng xứ
15. Xứ xứ di du, tồn du di du4.

Phần lời Việt là:

1. Hoa tốt tươi xinh đẹp
2. Hồng tía xuê xoang
3. Lại thêm càng
4. Dịu dàng mùi hương
5. Giọt thu sương
6. Ánh dương sáng long lanh dọi, cỏ cùng hoa, cùng hoa
7. Bướm đua cười sắc nước gương trời
8. Trông xa vòi vọi
9. Kìa bóng ô tan lặn
10. Rạng gương nga, vằng vặc xa xa
11. Ðám mây vẽ bóng, người thêm thương
12. Cảnh trời xa trông, trông không chán
13. Người say cảnh mến, lân la cây cỏ
14. Trăng gió, như chờ khách
15. Ðón rước tri âm nhìn nhau như trông.

Nếu đoán chữ trong phần lời Hán và so sánh với lời Việt, có thể nhận thấy phần lời Việt được phỏng dịch từ lời Hán.

Cần lưu ý rằng dù Ca Huế là một thể loại âm nhạc bác học, nhưng con đường lưu truyền của nó vẫn là truyền khẩu, truyền ngón như các thể loại âm nhạc dân gian. Vì vậy, hiện tượng “tam sao thất bản” trong lời ca vẫn có khi xảy ra, dù không phổ biến như trong âm nhạc dân gian. Vì vậy, khi được dạy lời ca chữ Hán như trên, chúng tôi đã nêu thắc mắc với nghệ nhân về ngữ nghĩa của nó, nhưng nghệ nhân không giải thích được vì chính bà cũng không hiểu ngữ nghĩa là gì do không biết chữ Hán, bà chỉ nói rằng mình từng được truyền như thế và bây giờ dạy lại như thế. Tiếp nối truyền thống đó, chúng tôi cũng học ca lời Hán đó mà không hiểu nghĩa là gì. Cũng như vậy, suốt mấy mươi năm nay, các nghệ nhân, nghệ sĩ và giới tri âm mộ điệu Ca Huế đều không hiểu lời ca ấy nghĩa là gì, dẫn đến việc người ta ít khi trình diễn nó, dần dà, nó không còn xuất hiện trong các cuộc trình diễn Ca Huế, dù là các cuộc chơi tri âm. Như thế, lời ca bằng chữ Hán ấy có nguy cơ thất truyền rất cao, phù hợp với quy luật lời Việt thay thế hoàn toàn lời Hán trong Ca Huế như tình hình hiện nay. Như vậy, để làm sống lại lời ca chữ Hán của bài “Lộng điệp”, chúng ta cần chỉnh lý lại nó trên cơ sở tiền thân của nó là bài “Kê Khang” 5.

B. Lời ca bài “Kê Khang” trong các tài liệu lịch sử

Gần đây, chúng tôi đã tìm được hai tài liệu cổ bằng chữ Hán - Nôm được suy đoán là có từ thế kỷ XIX, trong đó có ghi chép về lời và nhạc của bài “Kê Khang” (bài viết này xin chú trọng đến phần lời của bài bản). Tài liệu thứ nhất là sách nhạc phổ Di tình nhã điệu chép lời bài “Kê Khang” như sau (tạm quy định là bài “Kê Khang” (1):

Phiên âm:

KÊ KHANG

1. Xuân sắc lai thiên địa
2. Cánh hoa khai
3. Thiều quang, thiều quang hề
4. Ðồng thiều quang
5. Ðiệp hoa khai
6. Tiến thân giang thượng mỗi tương hoan
7. Xứ hoa phong
8. Phiêu phiêu6 tranh phi
9. Xuân sắc thị giai kỳ
10. Ðiệp oanh ca, thường thiện oanh ca
11. Tuyết hoa hữu ngoạ.

Lời ca này được dịch nghĩa như sau:

KÊ KHANG

Sắc xuân đến đất trời
Hoa lại nở
Ánh xuân, ánh xuân chừ
Cùng ánh xuân
Bướm vờn hoa
Lướt thân trên sông lúc cùng vui

Trong gió hoa
Nhè nhẹ cùng bay
Sắc xuân đem giai kỳ
Bướm oanh ca, oanh ca véo von
Tuyết hoa có nằm?
               (Phiên âm, dịch nghĩa: Trần Đại Vinh)

Tài liệu thứ hai là quyển Đại Nam quốc âm ca khúc chép lời bài “Kê Khang khúc” cũng với nội dung tương tự (tạm quy định là bài “Kê Khang” (2):

Phiên âm:

KÊ KHANG KHÚC

1. Xuân sắc lai thiên địa
2. Cánh hoa khai
3. Thiều quang hề
4. Ðồng thiều quang
5. Ðiệp khai hoa
6. Tiến thân giang thượng, mỗi tương hoan, tương hoan
7. Xứ hoa phong
8. Phiêu phiêu oanh phi
9. Xuân sắc thị giai kỳ
10. Ðiệp oanh ca, thường thiện oanh ca
11. Tuyết hoa hữu hồn

Hai bài “Kê Khang” (1) và (2) chỉ khác nhau vài chữ (được in đậm). Sự sai khác này là không đáng kể, cho thấy độ tin cậy, tính chính xác cao của lời ca của bài “Kê Khang” trong các tài liệu này.

C. Chỉnh lý lời Hán bài “Lộng điệp”

So sánh giai điệu âm nhạc, phần lời Hán cũng như phần dịch nghĩa của bài “Kê Khang” của thế kỷ XIX với bài “Lộng điệp” hiện nay, chúng ta thấy chúng có nhiều điểm tương đồng7, đáng lưu ý là bài “Lộng điệp” dài hơn một đoạn và không chính xác về ngữ nghĩa. Vì vậy, điều cần làm là phải chỉnh lý lại lời Hán từ nghệ nhân Minh Mẫn sao cho đúng ngữ nghĩa, dựa trên hai bài “Kê Khang” đã được ghi trong các sách nhạc phổ kể trên. Để làm được điều đó, chúng tôi đã thỉnh ý một vị chuyên gia Hán Nôm là nhà nghiên cứu Trần Đại Vinh hiện sống ở Huế. Dựa trên tài liệu lịch sử về bài “Kê Khang” và tình trạng hiện nay của bài “Lộng điệp”, chúng tôi đã thống nhất cách chỉnh lý lời Hán của bài “Lộng điệp” như dưới đây.

Từ câu 1 cho đến câu 10 có thể lấy trong bài “Kê Khang” của thế kỷ XIX, bởi chúng đã được ghi chép rành mạch trong sách vở, có ngữ nghĩa rõ ràng. Riêng ở câu hát số 2, phần lời bài “Kê Khang” thiếu một chữ so với giai điệu của bài “Lộng điệp”, vì vậy, chúng tôi buộc phải sử dụng phần lời đó của bài “Lộng điệp” với việc phỏng đoán ngữ nghĩa cho nó. Nhận thấy chữ “khiến” không có nghĩa trong câu này, chúng tôi phải dùng chữ “khiển” để phù hợp với nội dung và giai điệu. Như vậy, từ câu hát 1 đến câu 10 của bài “Kê Khang” được dùng cho bài “Lộng điệp” khiến nó trở nên rõ nghĩa và phù hợp với giai điệu của nó.

Đến đây, hãy cùng xem xét từ câu số 11 của bài “Lộng điệp” trở xuống hết bài, là phần không có trong bài “Kê Khang” (trừ 4 chữ đầu). Như đã trình bày, đây là một phiên bản sai về ngữ nghĩa nên cần phải được chỉnh lý. Dựa trên ngữ nghĩa của bài “Kê Khang”, nhà nghiên cứu Trần Đại Vinh đã phỏng đoán và chỉnh lý đoạn cuối trong bài “Lộng điệp” như sau (từ câu 11 đến hết bài):

11. 雪 化 有 色 導 愛 園
12. 山 泉 巒 隘 寬 寬 次
13. 紅 花 野 草 相 來 相 往
14. 經 去 花 風 處
15. 處 處 怡 愉 存 愉 怡 愉

Phiên âm:

11. Tuyết ba hữu sắc8, đạo ái viên
12. Sơn tuyền loan ải, khoan khoan thứ
13. Hồng ba dã thảo, tương lai tương vãng
14. Kinh khứ, ba phong xứ
15. Xứ xứ di du, tồn du di du

Dịch nghĩa:

11. Hoa tuyết có màu sắc, bước đi trong khu vườn thương yêu
12. Suối trên non, đèo ải trên núi, nhẹ nhàng bước chân
13. Hoa đỏ cỏ nội, cùng đến rồi cùng đi
14. Đã trải qua chốn hoa và gió
15. Nơi nơi vui vầy, chỉ còn niềm vui.

Như vậy, toàn bộ lời ca chữ Hán của bài “Lộng điệp” có thể được chỉnh
lý như sau:

1. Xuân sắc lai thiên địa
2. Toàn khiển ba khai
3. Thiều quang hề
4. Đồng hề thiều quang
5. Điệp ba khai
6. Tiến thân, tiến thân giang thượng mỗi tương hoan, tương hoan
7. Xứ ba phong, xứ xứ ba phong
8. Phiêu phiêu oanh phi
9. Xuân sắc thị giai kỳ
10. Điệp oanh ca, thường thiện oanh ca
11. Tuyết hoa hữu sắc, đạo ái viên
12. Sơn tuyền loan ải, khoan khoan thứ
13. Hồng ba dã thảo, tương lai tương vãng
14. Kinh khứ, ba phong xứ
15. Xứ xứ di du, tồn du di du
Lời ca này được dịch ý là:
1. Sắc xuân đến đất trời
2. Hoa lại nở
3. Ánh xuân, ánh xuân chừ
4. Cùng ánh xuân
5. Bướm vờn hoa
6. Lướt thân trên sông lúc cùng vui
7. Trong gió hoa
8. Nhè nhẹ cùng bay
9. Sắc xuân đem giai kỳ
10. Bướm oanh ca, oanh ca véo von
11. Hoa tuyết hoa có màu sắc, bước đi trong khu vườn thương yêu
12. Suối trên non, đèo ải trên núi, nhẹ nhàng bước chân
13. Hoa đỏ cỏ nội, cùng đến rồi cùng đi
14. Đã trải qua chốn hoa và gió
15. Nơi nơi vui vầy, chỉ còn niềm vui.

Lời Hán sau khi được chỉnh lý đã được chúng tôi thử nghiệm trên giai điệu âm nhạc, chúng có thể ăn khớp với nhau (xem Phụ lục). Đến đây, lời Hán bài “Lộng điệp” đã có thể vang lên với đầy đủ ngữ nghĩa của nó, chấm dứt được tình trạng người ca phải trình diễn một phiên bản sai, ca mà không hiểu nghĩa là gì. Việc chỉnh lý lại lời Hán của bài “Lộng điệp” và làm nó vang lên trong các buổi trình diễn Ca Huế chính thống cũng chứng minh được một giai đoạn lịch sử của Ca Huế khi nó từng dùng lời ca bằng chữ Hán với cách phát âm Hán Việt trước khi chuyển hoàn toàn sang lời ca thuần Việt như hiện nay.

Có thể nói thêm rằng bản chỉnh lý này là một phiên bản chúng tôi đưa ra để độc giả, các chuyên gia Hán Nôm, các nghệ nhân, nghệ sĩ, những người tri âm mộ điệu… cùng tham khảo. Đây là bản chỉnh lý dựa trên các nguồn tài liệu hiện có cùng với sự suy luận và ý kiến chủ quan của chúng tôi, có thể còn có điều chưa hợp lý. Chúng tôi mong chờ sự góp ý hoặc các bản chỉnh lý hoàn chỉnh hơn của các chuyên gia, nghệ sĩ… để vấn đề càng được sáng tỏ hơn, việc chỉnh lý sẽ trở nên hoàn thiện hơn, với mong muốn làm sống lại phiên bản chữ Hán của một bài bản Ca Huế đã có từ trong lịch sử.

PHỤ LỤC:

Bài “Lộng điệp” sau khi đã chỉnh lý lời Hán:

P.T.T
(TCSH401/07-2022)

 

----------------------------------
1 Đại Nam quốc âm ca khúc, tài liệu ở Viện Hán Nôm, ký hiệu AB 146. Có thể tài liệu này do người đời sau chép lại mà không phải do chính Nguyễn Công Trứ ghi chép.
2 Để thêm độ chính xác, chúng tôi đã tham khảo thêm lời ca này từ em Lê Minh Vũ cũng được học gián tiếp từ nghệ nhân Minh Mẫn. Xin cảm ơn em.
3 “Ba” là từ nói trại từ chữ “hoa” do kỵ húy tên bà Hồ Thị Hoa, mẹ vua Minh Mạng.
4 Việc đánh số các câu hát trong bài viết này thực ra không có trong lời ca mà do chúng tôi thực hiện dựa trên sự ngắt câu trong văn bản chữ Hán bài “Kê Khang” trong nhạc phổ Di tình nhã điệu dưới đây. Đây không phải là câu nhạc mà có thể là các câu thơ trong lời bài hát.
5 Xem Phan Thuận Thảo, Từ Kê Khang đến Lộng điệp - Câu chuyện về một bài bản Ca Huế, Tạp chí Sông Hương, số 398, tháng 4/2022, tr.83-90.
6 Vốn viết là “biều biều”, suy xét phải là “phiêu phiêu” viết nhầm.
7 Xem thêm bài viết ở chú thích 5.
8 Bài “Kê Khang” (1) chép là “Tuyết hoa hữu ngọa”, bài “Kê Khang” (2) thì ghi là “Tuyết hoa hữu hồn”. Xét về ngữ nghĩa thì “Tuyết hoa hữu hồn” có lý hơn. Tuy vậy, nếu đưa vào giai điệu âm nhạc thì chữ cuối nằm ở âm khu cao nên phải có thanh sắc hoặc thanh ngã. Vì thế, bản chỉnh lý được đề nghị là “Tuyết hoa (ba) hữu sắc”.

 

----------------------------------
Tài liệu tham khảo:
1. Tác giả khuyết danh (?), Di tình nhã điệu, sách nhạc phổ lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AB 446.
2. Phan Thuận Thảo (2021), Chuyển biên, chú giải sách “Di tình nhã điệu” - Nhạc phổ Hán Nôm về bài bản Ca Huế, Đề tài NCKH cấp cơ sở, Học viện Âm nhạc Huế, Huế.
3. Phan Thuận Thảo (2022), Từ Kê Khang đến Lộng điệp - Câu chuyện về một bài bản Ca Huế, Tạp chí Sông Hương, số 398, tháng 4/2022, tr.83-90.
4. Nguyễn Công Trứ (?), Đại Nam Quốc âm ca khúc, tài liệu lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AB 146.

 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • VIỆT ĐỨCCâu trả lời đầu tiên vẫn thuộc về môi trường sinh hoạt âm nhạc. Hiện nay ở thành phố Hồ Chí Minh mỗi đêm có đến 50 tụ điểm ca nhạc hoạt động với cơn sốt ca sỹ leo thang đến chóng mặt.

  • Dương Bích HàCũng như các loại hình nghệ thuật khác, nền âm nhạc cổ truyền luôn tồn tại hai dòng: âm nhạc bác học và âm nhạc dân gian.Ở Huế, trên một thế kỷ là kinh đô của triều đại phong kiến Việt Nam, nên đặc biệt, tính chất này được bộc lộ rất rõ và triệt để, là nơi phân chia rạch ròi nhất các giai tầng trong xã hội, trong văn hóa nghệ thuật.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNNgày xưa, xã hội Việt Nam thực hiện nguyên tắc “phụ truyền tử kế” (cha truyền con nối), cho nên ông nội tôi - cụ Nguyễn Đắc Tiếu (sinh 1879), người làng Dã Lê chánh, xã Thủy Vân, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên, lúc mới lên mười tuổi, đã được cố tôi (lính trong đội Nhã nhạc Nam triều) đem vào Đại nội học Nhạc cung đình (Musique de Cour).

  • PHAN THUẬN THẢONhã nhạc là loại hình âm nhạc chính thống được sử dụng trong các cuộc tế, lễ của các triều đình quân chủ ở Việt Nam và một số nước khu vực Đông Á. Trong các cuộc triều hội, cúng tế, âm nhạc luôn theo suốt quy trình của buổi lễ, từ lúc mở đầu cho đến hồi kết thúc. Nó tham gia vào từng tiết lễ, là một thành tố không thể thiếu của cuộc lễ, đồng thời, là phương tiện giúp con người giao tiếp với thế giới thần linh. Loại hình âm nhạc này được các triều đại quân chủ hết sức coi trọng, được phát triển thành một thứ quốc nhạc và là một trong những biểu tượng cho sức mạnh của vương quyền và sự vững bền của triều đại.

  • THÂN VĂN1. Phương thức liên kết về bài bản.Đặc điểm chung nhất của hệ thống bài bản hòa tấu nhạc cung đình thường là ngắn gọn, gắn liền và phù hợp với các ca chương trong mỗi nghi thức tế lễ. Những nghi thức này được tiến hành theo một trật tự trang trọng và nghiêm ngặt, nên mỗi bài bản ca chương và âm nhạc buộc phải trình tấu đúng với thời gian cho phép của từng nghi thức. Những bài bản này đương nhiên hoàn toàn độc lập về nội dung, nhưng do nằm trong một trật tự trình tấu nối tiếp liên tục, nên ngẫu nhiên đã hình thành các thể loại liên hoàn khúc khác nhau. Trong đó, độ dài, ngắn của mỗi liên hoàn khúc, tuỳ thuộc vào tính chất quan trọng của cuộc lễ, tuỳ thuộc vào số lượt nghi thức và số ca chương mà cuộc lễ quy định.

  • YAMAGUTI OSAMUTháng Giêng năm 1994, trong lúc đang còn ngất ngây hương vị Tết, thì đột nhiên điện thoại và fax từ Paris đến tới tấp. Đó là vì UNESCO đã nhận lời yêu cầu của chính phủ Việt Nam để mở một Hội nghị Quốc tế thảo luận về vấn đề nên làm gì và cái gì có thể làm được để bảo tồn và phát huy tài sản văn hoá vô hình của Việt Nam, vì vậy họ muốn mời tôi tham gia hội nghị và đưa ra đề nghị cụ thể. Ông Tokumaru Yosihiko (giáo sư của Đại học Nữ Ochanomizu, lúc đó còn là Trưởng khoa của Khoa Văn hoá- Giáo dục) cũng nhận được lời mời như vậy, nên tôi đã liên lạc với ông và cả hai quyết định nhận lời mời này.

  • VIỆT HÙNGCuộc toạ đàm với chủ đề Sự cần thiết phải thành lập nhạc viện ở Huế vừa diễn ra vào ngày 10/3/2004. Đây là một trong những hoạt động nằm trong khuôn khổ của Trại sáng tác khí nhạc dân tộc và phê bình lý luận âm nhạc, do Chi hội Nhạc sĩ Việt Nam Thừa Thiên Huế phối hợp với Trường Đại học Nghệ thuật Huế tổ chức từ 9/3 đến 17/3/2004.

  • THÂN VĂNSau hơn 2 tháng phát động và 9 ngày chính thức dự trại (từ ngày 09 đến 17/3/2004), với 14 tác phẩm khí nhạc dân tộc và 5 tác phẩm lý luận phê bình âm nhạc của 17 nhạc sĩ có mặt tham dự trại. Lễ bế mạc chiều ngày 17/3/2004 Trại sáng tác khí nhạc dân tộc & lý luận phê bình âm nhạc tại Huế đã gây được ấn tượng tốt đẹp và những tín hiệu đáng mừng trong lòng nhân dân Cố Đô. Điều đáng nói là các nhạc sĩ của Hà Nội, Huế và TP.Hồ Chí Minh đã gặp nhau từ một ý tưởng sáng tạo chủ đạo là nhằm tôn vinh và phát huy các giá trị của di sản văn hoá phi vật thể và truyền khẩu ở Huế, góp phần định hướng cho mô hình và mục tiêu đào tạo của Nhạc viện Huế trong tương lai.

  • TRẦN VĂN KHÊNhạc Cung đình là một bộ môn nhạc truyền thống Việt Nam dùng trong Cung đình. Nhưng người sáng tạo và biểu diễn Nhạc Cung đình hầu hết là những nhạc sĩ, nghệ sĩ từ trong dân gian, có tay nghề cao, được sung vào Cung để phụng sự cho Triều đình. Nhạc Cung đình Huế là một bộ môn âm nhạc truyền thống Việt Nam rất đặc biệt và có một giá trị lịch sử, nghệ thuật rất cao.

  • THÁI CÔNG NGUYÊNMột nhà văn nước ngoài khi đến thăm Huế đã nói: “Huế là một bảo tàng kỳ lạ chứa đựng trong lòng mình những kho tàng vô giá, những giá trị văn hóa vật chất và tinh thần Việt Nam”. Đúng vậy, bên cạnh kho tàng di sản văn hóa kiến trúc đồ sộ có giá trị tầm vóc quốc tế, Huế còn là một tụ điểm di sản văn hóa tinh thần phong phú, một vùng văn hóa Phú Xuân đặc sắc “Huế đẹp và thơ” nổi tiếng.

  • PHÙNG PHUNgày 07 tháng 11 năm 2003, ông Koichiro Matsuura, Tổng Giám đốc UNESCO đã chính thức công bố trong một buổi lễ long trọng nhân kỳ họp toàn thể lần thứ 32 của Ðại hội đồng UNESCO tại Paris: UNESCO đã ghi tên 28 Kiệt tác vào Danh mục Kiệt tác Di sản Văn hóa Phi vật thể và Truyền khẩu của Nhân loại.

  • LTS: Đại hội khoá II (nhiệm kỳ 2003 - 2008) của Chi hội Nhạc sỹ Việt Nam Thừa Thiên Huế vừa diễn ra vào trung tuần tháng 9. Nhạc sỹ Hồng Đăng, Phó Tổng thư ký Hội Nhạc sỹ Việt Nam, thay mặt cho BCH Hội Nhạc sỹ Việt Nam vào tham gia chỉ đạo Đại hội. Tại Đại hội, nhiều tham luận, ý kiến phát biểu của các nhạc sỹ đã thể hiện được sự trăn trở về thực trạng và hướng phát triển của nghệ thuật âm nhạc đương đại Huế. Sông Hương xin trích đăng một số ý kiến đã trình bày tại đại hội.

  • LÂM TÔ LỘCĐại tá - nhạc sĩ Đức Tùng, sinh năm 1926 tại Huế đẹp và thơ, đã mãi mãi xa quê: Ông mất ngày 25/01/2003. Ông viết ca khúc từ trước Cách mạng tháng Tám như Kỷ niệm ngày hè, Bên trời xa, Dòng Dịch thủy, Dưới ánh trăng mơ. Ông đã từng biểu diễn ca nhạc tại nhà hát Accueil, là cây Accordéon cầm chịch của ban nhạc gia đình ở phố Hàng Bè.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ Năm nay (2003), nhạc sĩ Trần Hữu Pháp (NSTHP) “mới” tròn 70 tuổi, nhưng dễ đã mấy chục năm, sau khi nhạc sĩ Trần Hoàn rời Cố đô ra Hà Nội nhận các trọng trách, NSTHP nghiễm nhiên ngồi “chiếu trên”, là “già làng” của giới âm nhạc Thừa Thiên Huế. Kể cũng phải; từ bốn mươi năm trước, khi hàng triệu thiếu nhi miền Bắc đội mũ rơm dắt lá nguỵ trang đến trường, miệng líu lo ca bài hát ông vừa sáng tác “Tiếp đạn nào / Tiếp đạn chuyền tay trên chiến hào / Cho chú dân quân bắn nhào phản lực...” thì không ít các nhạc sĩ nổi danh bây giờ có lẽ còn... bú mẹ! Vậy mà trước mắt tôi (và chắc là với không ít người nữa) - nói ông anh đừng giận nhé - vị nhạc sĩ lão làng này lại rất...trẻ con!

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO...Người ta thường nhắc tới Thái Quý như nhắc tới một con người giàu tình cảm, dễ khóc, dễ cười, dễ nóng giận và cũng rất vị tha. Nói đến khuyết điểm của mình trong cuộc họp, anh khóc đã đành, nhưng khi chỉ trích khuyết điểm của đồng đội, anh cũng khóc...

  • NGUYỄN THANH TÚNăm ngoái, tôi tình cờ gặp nhạc sĩ Thái Quý khi ông đang bận rộn chỉ đạo "đoàn thành phố Huế" trước giờ ra sân khấu tham gia hội diễn ca múa nhạc công - nông - binh - trí thức do tỉnh Thừa Thiên Huế tổ chức tại nhà hát Trung tâm Văn hoá.

  • VĨNH PHÚCNếu kinh đô Thăng Long xưa từ trong cung phủ đã có một lối hát cửa quyền phát tán thành một dòng dân gian chuyên nghiệp là hát Ả đào và vẫn thịnh đạt dưới thời vua Lê chúa Trịnh, thì kinh đô Phú Xuân sau này, hoặc là đã từ trong dinh phủ của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong phát tán thành một lối gọi là Ca Huế (gồm cả ca và đàn). Vậy cũng có thể gọi Ca Huế là một lối hát Ả đào của người Huế, một lối chơi của các ông hoàng bà chúa xét trên quan điểm tiếp biến trong tiến trình của một lối hát truyền thống và tiến trình lịch sử từ Thăng Long đến Phú Xuân-Huế.

  • VĂN THU BÍCHTừ bao đời nay, tình yêu Huế vẫn mãi chìm sâu trong lòng những người con xứ Huế, dù đang sống trên đất Huế hoặc đã biền biệt xa xứ và Huế mộng mơ cũng len nhẹ vào hồn du khách khi đến thăm vùng đất thần kinh này.

  • TRẦN NGỌC LINHBạn còn thương bạn biết gửi sầu về nơi mô?Trước khi tôi vào Huế, chị tôi dặn: “Vào muốn gặp bà Minh Mẫn cứ đến đường Nhật Lệ mà hỏi”. Theo cách nhớ đường của một người viễn khách từ xa đến thì đến phố đó cứ thấy đầu ngõ nào có một giàn hoa tử đằng với những dây hoa buông thõng chấm xuống nền đất vỉa hè thì đó chính là lối rẽ vào ngõ nhà danh ca Minh Mẫn.

  • TRẦN KIÊM ĐOÀNGọi tên hoa súng: LỤC HÀGọi thôn LIỄU HẠ: quê nhà bên sôngGọi TRẦN KIÊM: họ sắc... khôngGọi HÀ THANH: tiếng hát dòng Hương Giang