(Đọc Đỉnh cao hoang vắng, tiểu thuyết của Khuất Quang Thụy, Nxb Văn hóa dân tộc, 2016)
Phải đặt tiểu thuyết Đỉnh cao hoang vắng của Khuất Quang Thụy trong bối cảnh văn chương hôm nay mới có thể tiếp nhận nó ở một phương diện quan trọng khác - căn cốt văn hóa của nghệ thuật ngôn từ. Quan sát đời sống văn chương Việt Nam chúng ta dễ nhận thấy một thực tế rất đáng quan tâm - đó là sự trở lại của đề tài chiến tranh cách mạng và lịch sử trên văn đàn đương đại. Vì sao? Câu hỏi này không khó trả lời. Có thể vì con người hôm nay rất nhiều băn khoăn, trăn trở về lẽ sống, về các bậc thang giá trị sống, về đạo làm người, về đức tin… Nhưng thời hiện tại chưa thể giúp con người tìm câu trả lời. Phải chăng cần thiết “ôn cố tri tân”? Phải chăng có thể tìm ra cái “chìa khóa” từ trong quá khứ nhằm giải đáp cho những câu hỏi thuộc về nhân cách và xử thế trong đời sống hôm nay? Viết về chiến tranh hay lịch sử bây giờ cũng đều nhằm trả lời cho những câu hỏi của hiện tại. Vì thế không có gì đáng ngạc nhiên khi trong mấy năm gần đây nhiều tác phẩm được giải thưởng văn học trong nước và khu vực đều thuộc về đề tài chiến tranh và lịch sử. Một vài dẫn chứng chúng tôi nêu ở đây nhằm soi tỏ thực tiễn sáng tác văn chương: Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75 của Trần Mai Hạnh (Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam, 2014; Giải thưởng văn học Đông Nam Á, 2015), Mưa đỏ của Chu Lai (Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam, 2016)… Đây là các cuốn tiểu thuyết viết về chiến tranh thành công trong mấy năm gần đây. Bổ sung cho niềm lạc quan có cơ sở về dòng tiểu thuyết chiến tranh vẫn còn thịnh vượng là sự xuất hiện Đỉnh cao hoang vắng của Khuất Quang Thụy. Một tác phẩm mới liệu có đem lại cho độc giả hôm nay vốn rất thông minh, nhưng khó tính và thậm chí đôi khi… đỏng đảnh một hấp lực mới, một sự níu kéo mới bởi vì nếu không họ sẽ ngả về phía văn hóa nghe - nhìn vốn nhẹ nhõm, thuần giải trí, xong là quên. Bây giờ không thể viết về chiến tranh theo kiểu ùng oàng súng đạn, ta thắng địch thua. Chiến tranh không phải trò đùa. Cũng không phải “khi đại bác nổ thì họa mi ngừng hót”. Chiến tranh đã lùi xa hơn bốn mươi năm nên cần phải viết về nó như thế nào trong nhu cầu tinh thần thời đại hôm nay? Nhà văn xác định mục tiêu viết rất rõ: “Cuộc chiến đã lùi rất xa rồi. Ngày hôm nay chúng ta đang tìm cách tạm khép lại những tàn dư của hận thù để hòa hợp dân tộc. Trong khi dọn dẹp đống tro tàn của chiến tranh để lại, ta bỗng hiểu ra rằng, thực ra chúng ta không khác nhau nhiều như vẫn tưởng” (Mấy lời đầu sách). Phải nói ngay, Khuất Quang Thụy không phải là người phát kiến ra tư tưởng này. Nhưng ông có cách viết độc đáo. Truyền thống dân tộc ta đã khắc ghi từ nhiều đời “đem đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân để thay cường bạo”. Văn học đương đại Việt Nam cũng đã có những ví dụ sinh động thể hiện bằng ngôn từ nghệ thuật tư tưởng này như Miền cháy của Nguyễn Minh Châu, Chim én bay của Nguyễn Trí Huân, Ở đất kẻ thù của Lê Lan Anh đến Nhiệt đới gió mùa của Lê Minh Khuê, Miền hoang của Sương Nguyệt Minh, Cơ bản là buồn của Nguyễn Ngọc Thuần…
Đỉnh cao hoang vắng kể một câu chuyện trong chiến tranh, nó không quá hi hữu nhưng cũng không hề phổ biến. Nữ y sĩ quân Giải phóng Vân trong một lần tải thương bị phục kích. Chị bị địch bắt sống và ép làm theo mệnh lệnh của nhóm tàn binh ngụy. Nhóm này chỉ có hai người: đại úy lính dù Nguyễn Lang và trung sĩ Điết (người dân tộc thiểu số). Tình huống giàu tính kịch. Bọn địch không giết tù binh Vân vì cô là y sĩ. Đại úy Nguyễn Lang bị thương trong cuộc đào thoát khỏi trại giam của quân Giải phóng đang rất cần có người chăm sóc y tế. Ba người đành tạm thời nương tựa vào nhau cùng tồn tại. Hơn một năm trời họ lưu lạc trong đại ngàn Trường Sơn. Môtíp cốt truyện, như nhiều người nhận xét, có tính chất và dư vị “chuyện đường rừng”. Tác giả rất mạnh tay khai thác và thể hiện tình huống giàu xung đột và kịch tính này. Hơn ba trăm ngày sống kề cạnh nhau, hai nam một nữ mà không hề xảy ra chuyện đụng độ thuộc về giới tính, bản năng. Đại úy Nguyễn Lang và trung sĩ Điết có phải là “thần thánh” hay đã hóa gỗ đá? Không! Họ là những con người bằng xương bằng thịt. Nhưng vì sao họ trở nên đứng đắn trước một cô gái hơn hai mươi tuổi, trẻ trung và không thể nói là không xinh đẹp, hấp dẫn như Vân? Có hai lí do để cho hai bên có thể điều hòa mâu thuẫn, cùng tồn tại, cùng tìm lối thoát cho mình. Về phía “bên kia” thì đại úy Nguyễn Lang là một sĩ quan Việt Nam Cộng hòa được đào tạo bài bản. Anh có lương tri của con người. Sau này anh chết vì chính đạn bom của không lực Hoa Kì (ném nhầm, bắn nhầm) chứ không phải của phía Giải phóng. Anh chết trong sự oan khuất của một người lính tận tụy nhưng lại bị chính cái đế chế mình phục vụ sát hại. Chính anh chủ động thả Vân được tự do (anh nói với Vân: “Tôi muốn một cuộc chia tay trong hòa bình”). Hơn ba mươi năm sau gặp lại Điết (bây giờ đã là một thường dân, làm việc trong tổ bảo vệ rừng), Vân đã nói về Nguyễn Lang: “Ông ấy là người tốt… và là một người trọng danh dự”. Và sau bao nhiêu ngày tháng trải nghiệm chiến tranh bên cạnh hai người thuộc phía bên kia, Vân cảm nhận được: “Nền văn hóa nào thì sự tinh túy của nó vẫn là sự tử tế giữa con người với con người”. Khi còn trẻ, chính người sĩ quan tương lai Nguyễn Lang đã nhận thức được về cộng sản chỉ là: “Sự khác biệt về văn hóa... chứ không thấy có bao nhiêu lòng hận thù”. Anh ta không thuộc số người xăm thích lên trên cơ thể mình những câu như “sát cộng phục thù” hay “đụng Sư đoàn 320 Bắc cộng đánh tới chết”. Về phía “bên này”, Vân như là một đại diện “thách đấu” với hai người đàn ông khác chiến tuyến. Vân có cuộc đấu tranh nội tâm căng thẳng khi tạm thời hợp tác với Nguyễn Lang và Điết. Trước hết là để tồn tại, để bảo vệ mình, để có ngày trở về. Rõ ràng đây là tư tưởng đúng đắn: Đấu tranh là để sống chứ không phải để chết. Ngay cả khi Vân bày mưu cho Điết lẻn vào các bãi khách ở các trạm giao liên của ta để “trộm” lương thực, thuốc men thì cô cũng đã phải cân nhắc rất nhiều. Như thế có là phản bội đồng đội, đồng chí của mình? Và điều khó khăn nhất với Vân là: “Nếu nay mai có cơ hội trở về với đồng chí đồng đội thì chưa chắc cô đã đủ dũng cảm để nói ra sự thật. Bởi vì cái sự thật ấy không hề dễ hiểu với những ai chưa từng nếm trải những khắc nghiệt và kì lạ như cô đã trải qua”. Sau này khi được trở về trong vòng tay đồng đội, đồng chí Vân đã phải đóng kịch một thời gian dài như là một người mất trí nhớ vì bị chấn thương, sang chấn thần kinh (làm thế để khỏi phải trả lời những câu hỏi rất khó trả lời). Thậm chí hơn một năm bị quăng quật trong đại ngàn cô đã bị mất đi dấu hiệu của người phụ nữ có khả năng sinh nở. Sau chiến tranh, cô rơi vào nỗi cô đơn không chồng con. Đó mới là hậu quả chiến tranh nặng nề và dai dẳng nhất với người phụ nữ này. Vượt lên trên tất cả mất mát đau thương, bù lại Vân có được một trải nghiệm văn hóa không dễ gì ai cũng có được.
Có thể nói, Đỉnh cao hoang vắng đã tạo nên được ám ảnh nghệ thuật cùng với thời gian nhờ vào câu chuyện hi hữu mà nhân vật Vân đã trải qua. Ở đây có môtíp “lạc rừng” về văn hóa. Có nghĩa là, trong một tình huống nào đó ta đi ra khỏi thung thổ văn hóa quen thuộc để tiếp xúc với một văn hóa khác. Cuộc tiếp xúc văn hóa nào rồi cũng đem lại kết quả đổi thay trong nhận thức và hành động. Đọc Đỉnh cao hoang vắng tôi chợt nhớ lại một ý của ngài Lester Peason (cựu Thủ tướng Canada, nhà văn, giải Nobel văn chương 1957): “Chúng ta đang sống trong một kỉ nguyên, khi mà các nền văn minh khác nhau phải học cách cùng sống trong hòa bình, học hỏi lẫn nhau, nghiên cứu lịch sử, tư tưởng, văn hóa, nghệ thuật của nhau; cùng nhau làm phong phú thêm cái vốn của những nền văn minh khác nhau. Đi ngược lại, thế giới nhỏ bé chật chội này chỉ còn lại sự hiểu lầm, căng thẳng, va chạm và thảm họa… Một trật tự thế giới dựa trên các nền văn minh là một bảo đảm an toàn nhất chống lại chiến tranh thế giới”.
Đỉnh cao hoang vắng bề ngoài là một tiểu thuyết chiến tranh. Tất nhiên. Nhưng, theo tôi, đặt trong bối cảnh văn chương hôm nay nó lại nghiêng về thế sự - đời tư, chiến tranh chỉ là cái đường viền mà thôi. Bởi vì những trang viết trực diện về chiến tranh đậm đặc mùi thuốc súng và vô cùng ác liệt (Phần thứ hai - Đạo hùng binh, 160 trang) lại không “bắt mắt” độc giả bằng những phần còn lại (hơn 200 trang) về số phận ba nhân vật chính. “Chiến thắng cuối cùng vẫn thuộc về nhân dân, về đất nước. Những người lính ngã xuống hoặc để lại một phần tuổi xuân trên chiến trường, đều không bị lãng quên”. Đó là xác tín của nhà văn lúc đặt bút viết Đỉnh cao hoang vắng. Nhưng với tư cách một độc giả, tôi nghĩ, đó là chiến thắng của văn hóa. Là bởi ứng xử được xem như một trong ba nòng cốt của phạm trù văn hóa (giá trị - bản sắc - ứng xử). Văn chương là nhịp cầu văn hóa, qua con đường thẩm mĩ, nối kết những người luôn luôn tri nhận được chân lí “hận thù làm đời người ngắn lại”.
Theo Bùi Việt Thắng - VNQĐ
Hội Nhà văn Việt Nam được chính thức thành lập từ năm 1957, sau Hội nghị thành lập Hội diễn ra tại trụ sở Câu lạc bộ Đoàn Kết, từ 1/4 đến 4/4/1957. Trong lịch sử văn học Việt Nam thời hiện đại đây là lần đầu tiên có một tổ chức của những người lao động văn học trên toàn quốc.
Tái hiện bức tranh Hà Nội thời bao cấp, rồi từ đó đi tìm cái chất nhân văn thuần nhất trong đời sống con người, “Chuyện ngõ nghèo” là cuốn tiểu thuyết đánh dấu sự trở lại của Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh năm 2017 sau một loạt các tiểu thuyết đình đám như: Mẫu Thượng Ngàn, Hồ Quý Ly, Đội gạo lên chùa…
1. “Thiện, Ác và Smartphone” là tập tiểu luận thứ hai của Đặng Hoàng Giang, sau “Bức xúc không làm ta vô can” - cuốn sách ra mắt năm 2015 và gây được tiếng vang rộng rãi.
Nhân chuyến trở lại Việt Nam truyền giảng phật pháp, ngày 4-4, Tiến sĩ Phật học Khangser Rinpoche đến từ Ấn Độ đã dành nhiều thời gian giao lưu cùng bạn đọc tại TPHCM.
Nguyễn Trí được biết đến vào năm 2013 khi tác phẩm Bãi vàng, đá quý trầm hương (NXB Trẻ) đoạt giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. “Sự nghiệp” cầm bút của Nguyễn Trí đến nay mới chỉ 5 năm nhưng ông đã có 9 cuốn sách truyện dài, truyện ngắn ra đời.
Phan Việt vừa có buổi giao lưu về tác phẩm mới nhất, cũng là tác phẩm chị cho là quan trọng nhất trong bộ ba "Bất hạnh là một tài sản" của mình.
Sáng 21-3, tại trụ sở Hội Nhà văn TPHCM, đã diễn ra buổi ra mắt tập tiểu luận, phê bình Nhà văn Lê Văn Thảo trong lòng đồng nghiệp do Hội Nhà văn TP thực hiện (NXB Hội Nhà văn xuất bản).
Nhà sách Trí Việt cho biết sau gần 3 năm thực hiện với 6 lần chỉnh sửa, Hội đồng thẩm định cuốn sách “Gạc Ma - Vòng tròn bất tử” do Ban Tuyên giáo TƯ thành lập đã đồng ý cho phép xuất bản cuốn sách này.
Lịch sử phát triển của hệ thống thể loại báo chí cho thấy Bút ký chính luận giữ một vai trò quan trọng trong việc định hướng xã hội. Nó là thể loại không thể thiếu trong việc giáo dục tư tưởng, chính trị cho quần chúng. Trong một thế giới đương đại, trong một xã hội bùng nổ thông tin với nhiều biến động, Bút ký chính luận càng trở nên quan trọng và cần thiết cho đời sống.
Ngày 4 và 5/1, Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam tiến hành họp để bình chọn bảy tác phẩm xuất sắc của làng viết năm qua. Kết quả được công bố hôm 10/1.
Nghiên cứu công phu, tư liệu chính xác, văn phong mạch lạc và giàu cảm xúc, tác phẩm Văn chương phương Nam - một vài bổ khuyết của hai tác giả Võ Văn Nhơn và Nguyễn Thị Phương Thúy không chỉ khiêm tốn “bổ khuyết” mà là công trình giàu tâm huyết với những khám phá ngạc nhiên mới lạ rất hữu ích.
Nói về cuốn sách phê bình văn học Giăng lưới bắt chim của mình, Nguyễn Huy Thiệp hay nhắc lại điều thoạt tiên tưởng rằng ông "lấp lửng": tôi viết có đúng có sai, có chính xác có nhầm lẫn, viết khi mình "đang còn nửa mê nửa tỉnh".
Có một thực tế là rất nhiều người song hành giữa việc viết văn và viết báo. Xét về góc độ thể loại thì văn học và báo chí là hai thể loại khác nhau nhưng giữa chúng lại có sự tương đồng với nhau về nhiều khía cạnh. Vì thế việc song hành giữa văn chương và báo chí là điểu dễ hiểu.
hông biết đã đến đáy chưa thảm trạng tác giả (khoa học và nghệ thuật) bị xâm hại trắng trợn về bản quyền như hai công trình về dân tộc học của GS.Từ Chi, và về sử học của GS.Trần Quốc Vượng. Hai tác giả có tên tuổi đã quá cố, và những nhà xuất bản gây nên sự cố, làm méo mó, biến dạng đứa con tinh thần của họ lại là những nhà xuất bản có những cái tên rất sang, là cơ quan ngôn luận của những cái hội nghề nghiệp lẽ ra phải rất nghiêm chỉnh, đứng đắn trước công luận. Các cơ quan truyền thông đã lên tiếng. Không biết gia đình, thân nhân của hai tác giả có ý kiến gì không? Ta đã có lệ luật gì về những vụ việc như vậy, để đưa ra tòa án dư luận?
Chiều 7.10, Hội đồng giám khảo giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội gồm các nhà văn, nhà thơ: Bằng Việt, Nguyễn Việt Chiến, Phạm Xuân Nguyên, Bùi Việt Mỹ, Nguyễn Sĩ Đại, Lê Minh Khuê, Đoàn Tử Huyến, Nguyễn Đăng Điệp, Nguyễn Thành Phong đã họp phiên chung khảo.
Ngày 4/10, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã đến dự và phát biểu tại Hội thảo khoa học toàn quốc “Văn học, nghệ thuật với việc xây dựng nhân cách con người Việt Nam” do Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Tác phẩm văn xuôi, trong đó có truyện ngắn xuất hiện trên báo chí đã trở thành món ăn tinh thần nhiều năm nay cho độc giả. Tuy nhiên, dường như món ăn tinh thần này đang ngày càng có xu hướng bị co lại, bị thay thế.
Sáng tạo văn học nghệ thuật về đề tài chiến tranh, cách mạng thời gian qua đã có nhiều đổi mới và được giới chuyên môn ghi nhận.
Viết về cuộc Cách mạng mùa Thu 70 năm về trước, nhà văn Nguyễn Đình Thi - người can dự, đồng thời là chứng nhân của cuộc cách mạng vĩ đại đó (Năm1945 ông dự Hội nghị Quốc dân Tân Trào và được cử vào Ủy ban Giải phóng dân tộc; sau đó được bầu làm Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa I là Ủy viên thường trực) đã ví nó giống như “một cuộc lột vỏ”, “rũ bùn” đứng lên của con người, của dân tộc Việt Nam: Súng nổ rung trời giận dữ/ Người lên như nước vỡ bờ/ Nước Việt Nam từ máu lửa/ Rũ bùn đứng dậy sáng lòa (Đất nước).
Sau gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới về văn hóa văn nghệ được đề ra trong Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 12/1986), văn học Việt Nam đã có nhiều bước chuyển sâu sắc, đạt nhiều thành tựu đáng kể trên tất cả các thể loại, góp phần quan trọng vào việc xây dựng nền tảng văn hóa, tinh thần của con người và xã hội.