Chị về bên ngoại

10:58 08/02/2010
NGUYỄN ĐẶNG MỪNGChị Hà cùng tuổi với tôi, tuổi Thìn. Chị bảo nam Thìn nữ Tỵ nên đời chị sẽ lận đận long đong, đời tôi sẽ hanh thông.  Mới mười hai tuổi mà chị như người lớn, lúc nào cũng gọi tôi bằng cậu, cậu em.

Minh họa: Đặng Mậu Tựu

Bên ngoại chị không còn ai, chỉ bà con xa. Bác Ca, cậu ruột chị là người cuối cùng trong chi, bị Tây bắn lúc mới mười tám tuoi. Mỗi lần ai nhắc đến Bác Ca là O Hát mẹ chị Hà  khóc tấm tức, bảo sao trời không cho O chết thay cậu ấy.  Tuyệt tự!  Điều đó khiến O Hát càng quý bên ngoại hơn. Mỗi năm đến ngày chạp mả O Hát dắt cả ba đứa con về. Anh Thổ là lực điền đúng nghĩa, cao to như Tây, da ngăm, mặt chữ điền. O Hát bảo giống dượng như đúc. Dượng cũng bị Tây bắt đi rồi chết đâu mất xác năm sinh chị Hà. Anh Điền thư sinh hơn, da trắng như con gái. Chị Hà gầy nhom, vác cái cuốc chét chạy lăng quăng theo hai anh. O Hát chỉ cho các con đây là mộ ông ngoại bà ngoại, đây là ông bà cố…Biết bao nhiêu người đã khuất, từ ông nội O Hát trở xuống. Đến trước mộ Bác Ca O Hát khóc òa lên, quỳ xuống lạy. Cậu ơi răng chết đi. Răng không nối dõi tông đường. Tuyệt tự rồi cậu ơi. Chị Hà quỳ bên cũng khóc. Hai anh trai vẫn thản nhiên dùng cuốc xẻng vun lại nấm mộ. Một lát ngôi mộ như được mặc áo mới, trắng toát cát rờn rợn bên tiếng khóc O Hát. 

O Hát thương tôi như cháu ruột, quý ba tôi như em ruột. O bảo phụ nữ chỉ một đời, vài đời sau con cháu sẽ kể nghe nói đời thứ mấy, thứ mấy có mệ ni mệ tê lấy chồng đâu bên làng Đông làng Tây mô đó....

Nhà tôi ở làng Tây gần quận lỵ, cách làng Đông khoảng năm cây số. Thường hàng năm O Hát nói với ba tôi nghỉ hè cho cháu về ở với O, cho có bạn với chị  Hà.  Tôi cũng thích rong chơi ở vùng quê, nhất là được cỡi trâu ra đồng cùng chị Hà. Tôi ngồi sau lưng chị, ôm eo chị trên lưng con trâu to béo đi qua những cánh đồng sau mùa gặt thích lắm. Lúc trâu lội qua sông chị Hà cười sang sảng, bảo tụi mình đi xe lội nước. Chị còn giải thích: “Cậu biết Hà là chi không, là sông đó. Anh Thổ là đất, anh Điền là ruộng”. Tôi bảo: “Ruộng đất không có nước thì không có khoai lúa, chị Hà là quan trọng nhất”. Chị cười thích thú. Suốt mùa hè chúng tôi ở ngoài đồng, bên dòng sông nhỏ. Ăn cơm trưa trong cái mo cau với cá kho ngon tuyệt. Ăn rồi tắm, tắm rồi ăn.

Lũ trẻ nhà quê tinh nghịch cặp đôi tôi với chị, tôi bảo bà con, đừng nói bậy O Hát đánh chết. Tụi trẻ nhảy tưng tưng hát vè tục tằn, “bà con hai họ, lọ mọ cả đêm, chị trống em kèn, tùng xèng tùng xèng…”  Chị Hà cầm roi tre rượt đuổi đám trẻ. Áo chị bị gai tre móc rách tơi tả chị vẫn rượt. Ngã lăn xuống ruộng lại bò đứng lên rượt đuổi đến cùng. Tụi nhỏ sợ chị chạy tán loạn. Chị ngồi bệt bên giường ruộng khóc rống riết. Tôi run rẩy đến gần, cầm tay kéo chị đứng lên, chị dằn tay lại trừng mắt kêu: “Đồ hèn, con trai mà hèn”. Tôi ngồi trên giường ruộng nhìn mặt trời lặn. Gió giật từng cơn, rặng tre lào xào lao xao. Tôi cúi mặt trên hai đầu gối khóc thút thít. Ngửng lên thấy bóng chị xấp xãi trên đường bạn, tôi vội vã chạy lúc thúc theo về. O Hát hỏi chuyện chi rứa, chị bảo tụi nhỏ cặp đôi con với cậu Thìn. O Hát cười, “Cặp đôi có chết ai mô. Bên ngoại bốn đời là lấy chắc được. O sẽ gả con Hà về bên ngoại để lo hương khói mả mồ”. Chị Hà đấm thùm thụp vào lưng mẹ, kêu lên “con mà, bà con mà…, con không chịu mô”.

Suốt buổi sáng hôm sau chị Hà  không thèm nói chuyện với tôi. Buồn. Buổi chiều tôi theo anh Điền đi bừa ruộng. Anh Điền hiền như ruộng, cho tôi đứng lên chiếc bừa gỗ thích lắm. Dù vậy tôi cứ mong trời chiều để về gặp chị Hà. Chị đứng chờ tôi trước ngõ, bảo vô tắm rồi ăn cơm học bài. Chị cầm tay tôi dắt ra giếng, cởi áo cho tôi rồi bảo ngồi xuống. Chị dội nước lên đầu tôi kỳ cọ. Lúc chị toan đụng phía dưới tôi hất tay chị ra. Chị cười khúc khích bảo thôi tự tắm đi, không sạch là ăn roi nghe chưa.

Một tối Chị Hà kêu Thìn ơi ra đây chơi. Chị ngồi dưới bụi tre trước sân nhà, dưới am thờ, bên cạnh cái cối đá. Cái cối để dưới am thờ nhỏ, chị đã thắp lên đó ba cây nhang. Tôi toan ngồi lên cối thì chị kéo tay bảo không nên. Cái cối này là kỷ vật của ông ngoại, linh lắm. Cái cối đá sứt tai đen thủi nằm dưới am thờ thì linh nỗi gì, tôi thắc mắc trong lòng. Chị kéo tay tôi ngồi gần, thì thào: “Cậu có tin không, cối đá cũng có linh hồn. Cái chi cũng có linh hồn hết, mụ Thà nói rứa”. Mụ Thà là cô đồng bóng, mỗi lần vong nhập vào mụ nói giọng lơ lớ kiểu người âm phủ. Bọn trẻ chúng tôi thường tụm lại xem mỗi lần mụ lên đồng. Tôi hỏi mụ Thà nói chi. Chị Hà giọng nghiêm trọng kể: “Cái cối này là hồi môn của ngoại. Mạ kể Tây đốt nhà cả thảy mười ba lần, cái chi cũng cháy, chỉ còn cái cối này, nó bị bom phạt sứt tai”. Chị đưa tay xoa rờ lên chỗ sứt rồi tiếp: “Mạ kể Mệ ngoại mất lúc sinh cậu Ca. Ông ngoại mất mạ mười sáu tuổi, cậu Ca mười bốn. Ông ngoại trối lại rằng, con trâu và hai sào ruộng để lại cho cậu Ca sinh sống và lập gia đình nối dõi tông đường. Nhà cửa chẳng còn chi để hồi môn cho con gái. Chỉ còn chiếc cối đá cha tặng con làm kỷ niệm. Nó không đáng giá nhưng có linh hồn của cha mạ trong đó. Rồi ông nhắm mắt ra đi. Mạ còn kể cái cối là chứng tích ghi lại mối tình của ngoại. Hai người tỏ tình với nhau bên chiếc cối này sau khi giã gạo và hò đối đáp. Một lần đến làng mệ ngoại hò giã gạo, ông hò: Hơ hơ… Anh ngồi bên ni tai cối/Em ngồi bên tê tai cối/ Tôi thấy em mặc áo nối vải đà tóc búi vải bao. Tôi không phải là phường vô phương tắc đạo mà băng hói lội rào tới đây”. Mệ “bí” không “đối đặng” bèn hò: hơ hơ… Đến đây thì ở lại đây, khi mô tốt rễ xanh cây thì về”. Ông ở lại “mần rể” ba năm thì cưới. Mệ ngoại theo chồng mang theo chiếc cối đá này làm kỷ niệm, lại đặt tên con là Ca Hát”.

Trăng hạ tuần. Dập dờn gió từng đợt. Tre pheo cúi xuống vờn lên, chiếu bóng những hình thù ma quái vật vã trên am thờ, lên cối đá. Nhang cháy nhòe lay động. Nhìn chiếc cối đá đen đủi chĩa ba cái tai nhọn hoắt như nhúc nhích, tôi lạnh toát người. O Hát ngủ sớm. Anh Điền đi đâu từ sẩm tối chưa về. Trong nhà còn ngọn đèn dầu lấp loáng trên bàn thờ chực tắt. Xóm làng im ắng, chỉ còn tiếng lào rào trên ngọn tre. Chị Hà cầm tay, níu đầu tôi nói nhỏ: “Anh Thổ gửi thư về nói mạ nên cho anh Điền ra tỉnh làm chi cũng được, đừng ở nhà, bất trắc lắm. Anh nói anh đi lính cộng hòa trong sình lầy cực khổ lắm. Sang năm anh mới có phép về thăm. Chị đọc thư cho mạ nghe, xong mạ bảo đốt đi. Hôm qua chị nghe anh Điền nói với mạ là đừng để cậu ở đây nữa, không hay”. Chị ghé sát tai tôi thì thào, “Anh Điền theo du kích, có súng. Cậu đừng nói với ai nghe chưa. Mai chắc chị em mình không còn gần nhau nữa, Thìn buồn không”. Chị quàng vai tôi thút thít, bập bệu, “Cậu về trên đó đừng nói chi với ai về chuyện anh Điền nghe. Khi nào chị đi chợ Huyện sẽ ghé thăm cậu”.

Tôi và chị vào nhà sửa soạn đồ đạc để mai cùng chị về nhà. Cả đêm đó tôi không ngủ được. Nằm trên tấm phản nghe gió xào xạc trên mái tranh. Anh Điền vẫn chưa về. Gà gáy canh ba chị Hà đã dậy nấu cơm. Ánh lửa rơm chập chờn bóng chị trên vách, lòng tôi đau thắt, nằm khóc thầm.

Chị Hà lại bới cơm vào mo cau như thường lệ, nói với O Hát: “Con đưa cậu Thìn về nghe mạ, chiều con mới về. Hôm qua con đã cắt cỏ đủ trâu ăn rồi”. Tôi chào O Hát. O xoa đầu tôi khuyên ngoan và học giỏi, xứng đáng với dòng họ nhà mình.

Chúng tôi men theo đường trâu đi hàng ngày. Những ô ruộng vừa vào nước phở sủi bọt. Mùi đất thơm vấn vương trong gió lào thổi nhẹ. Chị Hà bảo, “Ngày ni mình chơi đến xế chiều rồi chia tay”. Tôi không trả lời, tha thủi đi theo chị. Dừng ở bến sông vắng, nơi có bụi la ngà vươn ra giữa dòng, chị Hà soạn cơm ra cùng tôi ăn. Cơm còn nóng trong mo cau ăn với muối sả.

Mặt trời đỏ lựng  cao dần phía lũy tre nhà O Hát. Ở đó tôi tin là O đang nhìn với theo, hướng về phía ngoại, nơi có mồ mả mười mấy đời, và gửi vào chúng tôi một niềm tin xót xa mơ hồ nào đó.

Chị Hà rủ tôi tắm. Chúng tôi ngập lặn thỏa thích. Thường ngày đi chăn trâu chị mặc áo nâu hoặc đen. Hôm nay chị lại mặc áo quần mỏng màu sáng. Áo quần dính sát vào da thịt. Lần đầu tôi thấy rõ hai núm cau trên ngực chị, lòng bứt rứt một cảm giác khó tả. Chị quay mặt đi, hai tay ôm ngực, giọng như lạc đi: “Cậu Thìn sinh tháng giêng, chị tháng tư. Hai chị em mình mười hai tuổi rồi đó. Mới đó...”. Bất chợt chị Hà ôm riết tôi, hai núm cau ép vào ngực trần tôi nóng hổi. Chị thì thào: “Khi mô hết chiến tranh cậu lại về đi chăn trâu với chị nghe”.

Chiều xế bên kia sông. Chúng tôi ngồi nhìn xuống những bóng tre in lên dòng nước trong xanh. Không ai nói chi. Chị Hà cúi đầu bứt những cọng cỏ đưa lên nhìn chăm chú, nhăn trán ưu tư, rồi nhìn về hướng mặt trời lặn chớp mắt buồn bạn (buồn bã), hai giọt nước mắt run rẩy lăn xuống hai gò má gầy sạm nắng . Chị không nhìn tôi, bảo: “Chiều rồi, cậu về đi”. “Chị về trước đi”. Chúng tôi cứ nài nhau. Cuối cùng chị Hà xử: “Oẳn tù tì, ai thua về trước”. Chị Hà thua. Chị nhìn sững tôi, cũng lại lần đầu tôi thấy má chị ửng hồng. Đi một đoạn chị lại ngoái nhìn lui. Bóng chị nhỏ dần, nhỏ dần thành một cánh cò lẻ loi giữa cánh đồng mông quạnh.

***

Mấy đứa bạn kháo nhau sắp có đụng trận ở làng Đông. Thằng Chinh Quắn rủ tôi đi coi đánh trận. Qua cánh đồng, làng Đông khói lửa ngút trời. Mỗi lần  đụn lửa cuộn lên, sau đó là tiếng nổ lớn, thằng Chinh nhảy cẩng lên, múa tay la: “chết bây  nì, chết bây nì…”, tim tôi lại thót đau, lòng ran như lửa cháy. Nhà chị Hà có cháy không. Hầm trú ẩn có chịu nổi những quả bom  không.

Cách năm cây số mà làng Đông với làng Tây là hai thế giới đối nghịch. Suốt mấy tháng tôi không nghe tin gì về gia đình O Hát.

Một năm rồi hai năm. Một sáng tháng giêng tôi gặp chị Hà. Chị quấn khăn tang đi theo chiếc xe kéo, trên đó là quan tài. Chị Hà gục vào vai tôi khóc òa lên. “Thìn ơi, O Hát của Thìn mất rồi, Anh Thổ cũng chết rồi đây nì. Thìn về làng với chị đi, để thắp nhang cho O, để an táng cho anh Thổ, Thìn nghe. Đừng sợ ai cả, không sợ ai nữa cả. Cái tuổi chi chị mà khổ ri hè, Thìn ơi là Thìn, hu hu…”. Sau một tiếng khóc là chị vỗ lên vai tôi, vừa đi vừa kể lể. Tôi bước theo chị trong mưa bấc.

Quan tài đưa thẳng lên huyệt. Anh Điền đứng lặng, mắt đỏ hoe nhưng không khóc. Những nhát cuốc cuối cùng vun cát thành một ụ trắng toát, trong tiếng kêu gào của mỗi mình chị Hà. Chị lại níu vai tôi ngất đi.

Chị Hà bưng di ảnh anh Thổ cùng tôi về nhà, chị đặt lên bàn thờ bên bài vị O Dượng, thắp nhang và cùng tôi lạy. Xong chị giục: “Về đi kẻo tối, cậu Thìn. Máu loãng hơn nước lạnh. Tôi nhớ ơn cậu suốt đời”. Tôi ôm chầm chị run rẩy: “Chị Hà ơi, răng đời chị khổ rứa…”. Tôi không biết nói gì thêm, buông chị quay đi như chạy. Tôi tha thủi theo đường bạn. Tôi chạy trong gió bấc. Tôi bơi qua sông. Lại chạy. Vấp té xuống ruộng. Lại chạy…

Càng ngày tôi càng đi xa quê mình. Mỗi lần ngang cánh đồng, có dòng sông tôi lại nhớ thương chị Hà da diết. Chị Hà có sống nổi không trong bom đạn quê tôi.

Mười mấy năm sau tôi mới có dịp về quê, ngang cánh đồng xưa tìm về nhà chị Hà. Đến bên bến sông, gặp người làng Đông tôi hỏi thăm về chị. Họ bảo chị Hà lấy chồng bên làng Tây, làng ngoại của chị ấy rồi. Tội nghiệp, cả hai vợ chồng đều tật nguyền.

 Tôi không kịp hỏi thêm, nhắm hướng làng Tây mà chạy. Chị Hà ngồi ru con bằng một tay, tay còn lại cụt tới nách. Chị nhìn sững tôi rồi khóc òa: “Cậu Thìn còn sống đó à. Tưởng cậu đi luôn không thèm về quê.  Cháu cậu đây nì, kêu bằng cậu hay ông trẻ cũng được”. Đôi mắt đẫm nước của chị ngời hạnh phúc khi nựng thằng con trai kháu khỉnh của mình. Tôi hỏi tới: “Răng kêu cậu và ông”.  Sau khi rót nước mời, chị bình thản: “Cậu không vui à. Ngồi xuống đây tôi sẽ kể cậu nghe: Chồng tôi là cháu gọi cậu bằng chú họ. Anh ấy đi lính liên tê cùng lứa cậu. Số phận khắc nghiệt thiệt. Đến ngày cuối cùng của cuộc chiến anh ấy lại bị thương, cụt cả hai chân. Mà cũng may, rứa mới gặp tôi. Còn tôi từ ngày nhà cửa cháy hết anh Điền đem tôi theo lên rừng. Năm sáu chín anh Điền cũng mất sau một trận sốt rét rừng. Tôi lại vào bộ đội rồi bị thương mùa hè năm 1972. Về làng tôi đi học sư phạm rồi đi dạy. Năm nào tôi cũng về ngoại chạp mả. Bà con bên ngoại cứ cặp đôi tôi với “anh thương binh ngụy”, anh Chinh, chồng tôi hiện chừ đó. Ban đầu tổ chức cũng can ngăn, sau vì chúng tôi quyết tâm nên họ cũng chịu. Vậy là chúng tôi làm đám cưới.

Thằng Chinh tóc quắn, tôi nhớ ra rồi, thằng Chinh tóc quắn, cháu họ tôi.

Chị cùng tôi ra sân, dưới am thờ, chiếc cối đá sứt tai được đặt  lên cái bệ ốp gạch trang trọng. Chị thắp nhang vái rồi quay sang tôi: “Trễ tràng hết rồi cậu ơi. Số phận ông bà sắp đặt rồi. Chiếc cối đá dù sứt tai lại được  trở về với họ ngoại đây nì. Từ nay tôi sẽ gọi cậu bằng chú, Chú Thìn”.

N.Đ.M

(252/02-2010)



 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHAN TUẤN ANH- Anh ơi lên xe đi, xe chạy suốt Bắc Nam đấy.- Có đi Vinh hả anh, bao nhiêu tiền vậy?- Ôi dào! mấy chục ngàn thôi, lên nhanh đi anh ơi.

  • HOÀNG THỊ NHƯ HUYĐiện thoại di động trong túi rung lên báo tin nhắn đến, Luân uể oải mở ra xem. Khuya rồi sao còn ai nhắn tin nhỉ? Một số máy lạ với một dòng tin lạ hiện ra: “Bạn ơi tôi không biết bạn là ai nhưng tôi muốn bạn biết tôi sắp lìa xa cuộc sống này. Tôi đang tuyệt vọng”.Đúng là đồ khùng! Đồ dở hơi!

  • HOÀNG TRỌNG ĐỊNHPhòng giam chật chội, tối tăm...  Gần trần có một lỗ thông hơi. Bên ngoài lỗ thông hơi là bức tường tôn xám xỉn. Khe hở dài chừng 10 mét, rộng chừng 3 tấc, nằm song song và gần sát với mặt đường bên ngoài. Đứng trong phòng giam, từ lỗ thông hơi nhìn qua khe hở của bức tường, chỉ có thể thấy những bước chân người đi.

  • NGUYỄN TRƯỜNGThấy tôi ngồi chăm chú đọc thư, miệng cứ tủm tỉm cười, vợ tôi mới giả giọng, hỏi đùa:- Có việc chi thích thú mà cười một chắc rứa?- Có chuyện vui bất ngờ đấy em ạ! - Tôi vừa trả lời vừa kéo tay vợ ngồi xuống, rồi đọc lại một mạch toàn văn bốn trang thư của ba tôi từ Huế mới gửi vào.

  • VIỆT HÙNGGa H. một đêm mưa phùn ảm đạm.Khách chờ tàu nằm la liệt dọc các hành lang.Tôi bước vào phòng đợi, trong tâm trạng không vui mà cũng chẳng buồn. Tìm một chỗ ngồi bất kỳ…

  • TRẦN KIÊM ĐOÀN Ngôi nhà một thời là tổ ấm trên đồi bỗng trở thành rộng gấp đôi, gấp ba và vắng vẻ như một tòa lâu đài cổ từ khi Bé Út dọn ra khỏi nhà để lên miền Bắc học. Đứa con 18 tuổi trên đất Mỹ nầy rời nhà đi học xa thường có nghĩa là đang bước vào đời, ra khỏi vòng tay cha mẹ, thật khó lòng về lại. Những bước tiếp nối là học ra trường, kiếm việc làm, chọn nhiệm sở như cánh buồm đưa tuổi trẻ ra khơi. Bất cứ nơi nào có thể an cư lạc nghiệp trên 50 tiểu bang sẽ là nơi đất lành chim đậu. Tuổi thành niên tiêu biểu của văn hóa Âu Mỹ là tự lập, gắn liền với  vai trò chuyên môn và xã hội chứ không phải quanh quẩn với đời sống gia đình.

  • ĐỖ PHẤNĐêm rất khuya dưới chân núi H. Khó khăn lắm chúng tôi mới tìm được một con đò bằng tôn móp méo xác xơ. Chẳng hiểu ban ngày trông nó thế nào. Có lẽ đây là chiếc đò bị cấm lưu hành? Không thể có mặt ở bến vào ban ngày. Cũng là cấm làm phép. Dòng suối không có chỗ nào đủ sâu để có thể chết đuối.

  • ĐỖ KIM CUÔNGBây giờ bạn bè ít được gặp anh lang lang trên phố. Thảng hoặc dăm bữa nửa tháng, có khi hơn mới tóm được anh. Ấy là khi anh phải ra khỏi nhà đi nạp bài cho những tờ báo mà anh thường cộng tác, hoặc đi nhận nhuận bút một vài bài thơ lẻ in trên báo.

  • VŨ NAM TRỰC           Truyện ngắn

  • TRẦM NGUYÊN Ý ANHÔng Nhâm bước chầm chậm theo con đường tráng xi-măng ngoằn ngoèo trong con hẻm nhỏ. Căn nhà ông ở cuối xóm, một trệt, một lầu... mới tinh. Cánh cửa sắt đóng im ỉm. Ông ngồi bệt xuống nền xi-măng vì chân ông đã mỏi. Lẽ ra, khi mấy đứa con ông chưa bàn nhau cất lại căn nhà, ông đã có thể đẩy cánh cửa rào bằng tre và đàng hoàng bước vào nhà mình.

  • XUÂN CHUẨNĐể rồi tôi kể cho ông nghe về lai lịch cái quạt, để ông ông khỏi coi tôi là Thằng Bờm có cái quạt mo. Cái thời quạt điện quạt đá, máy lạnh mà cứ bo bo cái quạt kè, thỉnh thoảng lại đạp phành phạch như mẹ hàng cá thách lên giữa chợ. Cũng chẳng có gì li kỳ, hay mùi mẫn rơi lệ, chỉ là chuyện đời tầm phào.Hai ông trải chiếu ngồi giữa sân, nhâm nhi chén trà, ông Thân nói với đại tá Tiến về hưu như vậy khi đại tá ngỏ ý thích cái quạt kè của ông.

  • TRẦN THỊ TRƯỜNG  Bim chào đời vào lúc kém 19 phút. Trăng hạ tuần phun nhẹ màu đục của sữa vào bầu trời. Hôm sau trời lất phất mưa. Bố nói với bà ngoại trước khi đi làm: "Nếu không thấy con về thì bà giúp con cùng nhà con nuôi cháu". Câu nói ám ảnh làm trí tưởng tượng của bà ngoại nhiều lần thắt lại. Sau này nhiều khi bà ngoại sợ cả cái bóng của mình.

  • NAM TRUNG Ông Hãnh cứ đi tới đi lui trong phòng khách nhà ông, vừa đi vừa quạu cọ lẩm bẩm: thằng Hùng nó nói vậy là nó có ý coi thường mình, nó dám trứng khôn hơn vịt. Rồi mày sẽ biết tay ông. Ông sẽ cho mày còn lâu mới được vào Đảng, ông sẽ bác tất cả những đề xuất về mày...

  • HOÀNG THÁI SƠNKhi tôi lớn lên thì nội tôi đã mất từ lâu nhưng thỉnh thoảng dân làng vẫn nhắc đến người với niềm cảm mến về những chuyện không ít ly kỳ. Ông tôi rất khoẻ, người tròn vo, đen như sừng, tục danh Cu Trắt - phương ngữ vùng quê tôi nghĩa là nhỏ và rắn chắc. Ông ham mê võ thuật, thạo côn quyền, thuở trai thường đóng vai ông địa trong đám múa lân. Đám múa năm nào hễ thiếu ông là coi như nhạt trò, dân làng chẳng ai buồn xem. Người ta đồn ông tôi tài ba lỗi lạc, như có thể đi trên lửa, nhảy qua nóc nhà, còn những thứ chui vào hậu cung đình làng mà không cần dở ngói là xoàng... Kho chuyện về ông ngày càng dày do mồm miệng dân gian thêu dệt thêm, tuy nhiên trong đó nhiều chuyện là có thật.

  • PHAN XUÂN HẬUTôi trở về quê sau mười năm xa cách. Quê tôi nằm cuối con sông Vẹn, con sông này là nhánh của sông Dinh, bắt nguồn từ dãy núi Gám, chảy qua bến Dền. Nơi đây xưa kia là kinh đô của vua Dền. Vua Dền tụ tập lực lượng chống lại nhà Trần khi đó đang trấn áp nhà Lý. Vua Dền là hậu duệ của Lý Thái Tổ, ông không chịu sự chuyên quyền của vua tôi Trần Thủ Độ bèn lập căn cứ ở miền Tây Yên Thành, tức quê tôi, và Dền là kinh thành của ông, dân quen gọi ông là vua Dền.

  • NGUYỄN VĂN VINHTết Mậu Thân năm ấy tôi tròn mười sáu tuổi. Soi gương, tôi thấy y xì một con bé tóc lơ xơ hoe nắng, xấu tệ.

  • CHÂU DIÊNĐơn vị của tôi đi bộ từ một tỉnh miền Trung, lên qua Mường Phăng thì Điện Biên đã giải phóng. Sau một tháng đi bộ nhưng gần như chạy bộ, chúng tôi được phép nghỉ lại hai ngày ở một bản, hồi đó bản này nằm khá sâu trong rừng, nhưng nay thì nó đã ở bên một nhánh đường mới làm dẫn ra phố huyện Tuần Giáo để nối vào con đường số 6 chạy tuốt lên Điện Biên Phủ.

  • NGUYỄN TRƯỜNGLàng Hạ nằm phía hạ nguồn sông La Ngà. Đất chật. Người đông. Đói nghèo thành nếp. Hồi hai bên đánh nhau, nơi đây là vùng địch hậu. Giải phóng hơn chục năm mà làng Hạ đói nghèo vẫn hoàn nghèo đói. Không ít người bỏ làng đi xa chẳng thèm ngoái cổ nhìn lại. Vậy mà hơn mười năm lại đây, nhờ vực dậy cái nghề tơ tằm truyền thống vốn có từ xưa, làng Hạ đang trở thành một làng nghề giàu có nhất nhì trong vùng. Nhà cũ lỗi thời phá đi xây mới. Đường làng bùn lầy được thay bê-tông. Trường tiểu học tranh tre nứa lá hồi nào nay lên hai tầng. Điện lưới dọc ngang khắp làng đã đẩy năng suất ươm tơ kéo sợi lên cao chưa từng thấy. Chất lượng tơ tằm đạt chuẩn xuất khẩu. Hàng bán chạy hơn cả tôm tươi. Thu nhập người dân ngày một cao.

  • LÊ TRÂMNgồi với tôi và Kh là một đôi nam nữ còn khá trẻ. Chàng thanh niên, theo lời gã, vừa mới về từ Thái Lan sau khi trúng một hợp đồng béo bở. Gã là đại diện của một công ty xuất nhập khẩu nổi tiếng ở bên ấy.

  • NGÔ TỰ LẬPCó lẽ tôi đã ngủ rất lâu trước khi bị lay dậy một cách dữ dội. Tôi cố nằm thêm, mặc dù đó không phải là thói quen của một người lính cũ. Thường thì tôi bật dậy ngay. Trước khi tôi vào lính, cha tôi, một đại tá từng trải ba cuộc chiến tranh, chỉ dặn mỗi một câu: “Hãy chồm dậy ngay tiếng còi báo động đầu tiên!”. Lời dạy của ông tôi làm theo trong suốt thời gian tại ngũ và cả khi giải ngũ. Nhưng có những lúc ta không làm chủ được mình. Tôi thấy mình đau ê ẩm và phải một lúc khá lâu sau tôi mới chậm chạp mở mắt.