Chị Khảo

14:32 11/11/2009
LỆ THANHBé Khánh Hạ - đứa con gái duy nhất của chị đã đi! Chiếc lá xanh độc nhất trên thân cây khô héo, khẳng khiu đã lìa cành. Ngọn lửa cuối cùng trong đêm dài trơ trọi của chị đã tắt ngấm trong bỗng chốc. Chị tưởng rằng mình sẽ không thể sống nổi trên cõi đời héo hắt này nữa.

Ảnh minh họa - internet

Chị vật vã, đau đớn, quẫy đạp liên hồi. Hai bàn tay chị cào bươi trên mặt đường sỏi, bật cả máu tươi rói. Mái tóc chị rối tung, bụi đất bê bết, nước mắt ướt đẫm hai vạt áo. Mặt chị tím tái, mắt nhắm nghiền. Bộ áo quần bạc thếch, loang lổ những vết muối mồ hôi đọng lại, rách tả tơi như cõi lòng đơn chiếc của chị. Chị run lên bần bật, tiếng khóc khản đặc, nấc lên từng hồi. Chị kiệt sức, tuyệt vọng rồi ngất đi. Trong tay của mấy người hàng xóm giờ chỉ còn là cái xác không hồn của chị.

Đứa con gái của chị đang nằm ở đó, người ta đã tìm nó ngay dưới lòng sông với bụng chứa đầy nước. Nó cùng mấy đứa bạn đi tắm sông và đã...

Mấy ngày nay, chị lang thang, thơ thẩn lẩn quất trong các xóm rồi lại ra nghĩa địa, nơi đứa con của chị đang nằm. Đầu tóc chị rũ rượi trên khuôn mặt đẫn đờ, khờ dại. Chị đã mất tất cả, con cái, công danh, nghề nghiệp, gia sản... Con bé được chị nhặt được bên bờ ruộng trong một đêm chị đi làm đồng về muộn. Ba mẹ nó là ai? ở đâu? Nó được sinh ra trong hoàn cảnh nào chị không hề biết. Chị chỉ biết rằng số phận đã đưa đẩy nó đến với chị, cho chị được cái quyền làm mẹ, người mẹ nuôi. Một thân một mình đơn chiếc nơi đất khách quê người, chị đã giật gấu vá vai nuôi đứa bé đỏ hỏn, đến nay đã gần mười năm. Con bé lớn lên như một mầm cây, là niềm an ủi duy nhất, là chỗ dựa cuối cùng của cuộc đời lắm truân chuyên, cay đắng của chị. Thế mà, bỗng nhiên, cái chết phũ phàng đã cướp ngay đứa con yêu của chị ngay trên tay. Nỗi đau tột cùng khiến chị như điên dại, không phân biệt đúng sai, phải trái...

Chị có cái tên nghe khô khốc như cuộc đời, như thân hình của chị. Lê Thị Khảo. Mọi người vẫn đùa rằng chị là cái bánh khảo, là khí hậu hàn đới, là sa mạc...

Chị Khảo không lập gia đình, nói đúng hơn là chị không muốn lấy chồng. Sức khỏe, bệnh tật, hoàn cảnh buộc chị phải quên đi chuyện ấy. Chính số phận trớ trêu đã chơi khăm Khảo một vố vào năm cuối đại học ở Liên Xô, làm chị mất hẳn ý chí tiến thủ, bỏ hẳn khao khát chồng con và căm thù cánh đàn ông đến tận xương tủy.

Lúc đó, chị mới hai mươi ba tuổi, học năm cuối một trường đại học lớn ở Macxcơva, đang chuẩn bị làm luận án tốt nghiệp. Trong thời gian đó, chị đã gặp và yêu anh, trong thư viện thành phố, khi chị đi tìm đọc tài liệu làm luận án. Tên anh ta là Phong cũng đang học năm thứ tư ở thành phố. Biết chị đang làm luận án về hiện tượng nhật thực, nguyệt thực trong thiên nhiên. Anh tò mò muốn biết, chị giải thích cặn kẽ:

- Đây là hiện tượng rất có ích cho khoa học. Chúng ta đều biết rằng, chính nhật thực toàn phần đã góp phần mở rộng hiểu biết về mặt trời, nguồn cung cấp ánh sáng cho trái đất. Nhưng hiện tượng, nhật thực rất ích khi xảy ra. Ở Mácxcơva mới xẩy ra hai lần, cách nhau hơn 400 năm.

Khảo nói vậy, Phong cứ trố mắt mà ngạc nhiên:

- Thế lần này là lần thứ mấy?

- Đây là lần thứ ba - lần cuối cùng của thế kỷ XX.

- Vậy còn lần thứ tư, Khảo có biết xảy ra khi nào không?

- Có lẽ là cuối thế kỷ XXI.

- Chúng ta không thể sống tới lúc đó rồi!

- Biết đâu anh lại sống nổi đến lúc đó - Chị đùa và cười.

- Thế còn Khảo sẽ thọ đến bao lâu?

- Em à? May ra sống tới sang năm thôi. Sợ chưa kịp tốt nghiệp đấy chứ...

Chị đùa vui vậy thôi. Thế mà điều đó suýt trở thành hiện thực. Trong thời gian làm luận án, chị bị ốm - một trận ốm kinh khủng, phải nằm viện. Chị bị một căn bệnh nguy hiểm về máu. Các bác sĩ đề nghị: hoặc là chị buộc phải về nước chờ chết hoặc là chấp nhận ca thí nghiệm thay máu với tỉ lệ sống chỉ có một phần trăm. Mọi người ai cũng muốn đưa chị về để còn kịp gặp mặt họ hàng, người thân, được nhắm mắt ở quê nhà. Nhưng chị không muốn về chị biết căn bệnh của mình hơn ai hết. Chị chấp nhận ký vào đơn để thí nghiệm thay máu. Hơn nữa, gia đình chị chẳng có ai thân thích ngoài ông chú với cả đàn con và người thím cay nghiệt. Ba mẹ chị đã mất từ khi chị mới lên chín, trong một trận bom. Lớn lên, chị đã tự nỗ lực học hành, tự nuôi lấy thân. Chị thi đậu một lúc hai trường đại học với số điểm cao và được du học ở Nga. Bây giờ, chú thím hy vọng chị về mang theo nhiều hàng quý. Thế mà, chị lại mang về cái xác không hồn thì thà chết quách đây còn thanh thản hơn. Trong khi mọi người lo lắng thì chị lại rất lạc quan và vui vẻ:

- Mình biết trước sau gì rồi cũng sẽ chết vì ca thí nghiệm chỉ hy vọng có một phần trăm. Đằng nào cũng chết thì đành chấp nhận cái chết có ích cho khoa học kẻo mình chưa kịp đóng góp gì cho khoa học cả.

Nghe chị nói vậy, ai cũng xúc động và thương tiếc chị, mến phục chị nhưng cũng chẳng biết làm gì ngoài những lời động viên, an ủi. Phong biết tin, anh vội đến thăm chị và kịp nghĩ ra một việc làm thật đại nghĩa hiệp: anh sẽ cưới chị trước khi lên bàn mổ. Anh nói rằng anh đã yêu chị ngay từ lần gặp đầu tiên, những lúc này anh muốn chết cùng chị. Dù biết rằng chị sẽ chết song anh tha thiết muốn chị một lần được làm cô dâu, được một người chồng yêu say đắm, được biết mình cũng có một hạnh phúc như mọi người. Lúc đầu, chị từ chối, chị biết mình không sống nổi nên không muốn anh phải đau khổ một mình. Nhưng với lòng nhiệt thành của anh cùng với sự ủng hộ của mọi người, cuối cùng chị đã gật đầu phó mặc cho số phận đưa đẩy. Nhiều người tin rằng biết đâu nhờ tình yêu mà chị chiến thắng thần chết. Ai cũng lo lắng chuẩn bị đám cưới chu đáo có một không hai này. Trong buổi hôn lễ, họ phải dìu cô dâu đứng dậy chụp ảnh, trao nhẫn cưới. Đám cưới không có đêm tân hôn, không có phòng cưới, chỉ có một nụ hôn dài ngây ngất trong bữa tiệc ngắn.

Tin hai anh chị cưới nhau đã nhanh chóng bay đi khắp nơi. Bao nhiêu là đồ mừng, người dự đông nghịt chưa từng có. Mọi thứ đều do anh đảm nhận, chị chỉ ngồi dậy được ở giường với lời cám ơn không ngớt. Anh thu gom đồ mừng đóng gói hẳn hoi và đưa về nhà mình. Sau đám cưới, chị vẫn phải nằm viện chờ ca mổ. Chị chẳng để ý gì đến mọi thứ và cả hiện tượng bất thường của Phong, anh ít đến thăm chị cả bạn bè. Khoảng gần tháng sau, ca thí nghiệm đã thành công. Chị đã thoát khỏi tay tử thần, đã nằm trong số một phần trăm may mắn đó trước sự vui mừng khôn xiết của mọi người. Mấy ngày đó, chẳng thấy tăm hơi Phong đâu, anh ta đã biến mất với đồ mừng. Chị đau đớn nhưng cũng vui vẻ vì may mắn là sớm đã nhận ra được bộ mặt thật của anh ta. Khi chị đã bình phục hẳn, Phong trở lại bệnh viện với tờ đơn ly hôn. Chị đã ném cái ly uống nước vào mặt anh ta - kẻ lừa đảo hèn nhát có một không hai trên hành tinh này. Anh ta tin là chị sẽ chết nên mới làm lễ cưới với mục đích để thu gom vốn đi buôn, chưa kể còn được tiếng tăm ca ngợi nữa. Chị ghê tởm, khinh bỉ ký vào lá đơn để giải phóng cho chính mình. Sau đó, chị không còn đủ sức khỏe để học tiếp nữa nên đành phải xin về nước mong tìm được một công việc phù hợp. Chị được một người bạn đưa về quê và xin cho chị làm văn thư ở xã. Sau ca mổ đó, bệnh tật chị chưa có hiện tượng tái phát. Chị vẫn bình thường như mọi người, vẫn nhiệt tình làm việc nhưng không bao giờ chị nghĩ đến chuyện chồng con vì khi nghĩ đến kẻ lừa đảo, đến nụ hôn ghê tởm ngày ấy, chị rùng mình kinh hãi. Và chị đã thực sự thấy cuộc sống có ý nghĩa khi chị có bé Khánh Hạ. Thế nhưng, niềm hạnh phúc đó chỉ vừa lóe lên chợt vụt tắt, tuột hẳn khỏi tay chị cho chị như sắp chết lại lần thứ hai.

Cả tháng nay, chị chẳng ăn uống ở nhà, ai gặp chị thì ép ăn cho bằng được. Người chị gầy róc, khờ dại, ngồi dựa vào mái hiên nhà và ngủ thiếp đi lúc nào. Trong giấc ngủ, chị mơ thấy con bé đang chạy về sà vào lòng chị, hôn lên má chị với nụ hôn dài ngây ngất. Chị hoảng sợ nhớ lại nụ hôn ghê tởm năm xưa. Chị giật mình, choàng tỉnh... Trước mắt chị, không phải là con bé mà là mấy người bạn của chị hồi học ở bên Nga. Họ ôm choàng lấy nhau, khóc sướt mướt. Họ cho chị biết tin rằng: luận án khoa học của chị mấy năm nay vẫn được bạn bè tiếp tục hoàn chỉnh. Nay luận án đã được đưa về nước. Sắp đến đây, với sự giúp đỡ của bạn bè, chị sẽ hoàn thiện luận án của mình và sẽ được bảo vệ ở trong nước. Chị như người chết được cứu sống lần nữa. Chị quyết tâm cao để cố gắng vượt qua được mặc cảm của số phận, để từ bỏ cuộc sống trơ trọi, héo hắt mà chị đang phải gánh chịu. Không biết nơi chín suối vàng, con bé có hiểu thấu chăng lòng chị?

Đồng Hới  10. 98.
L.T
(128/10-99)



 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN NGỌC LỢITối đó bản Phiệt có buổi liên hoan văn nghệ. Cơm chiều xong Tản đưa tôi vào đó chơi. Chúng tôi đang chuẩn bị đi thì một cô đang dẹp đám cuốc xẻng trong góc lán nói vọng ra. Anh Tản mà đưa anh ấy đi thì có mà... Anh ấy đẹp trai, gái bản theo hết, mất phần đấy... Tản cười, cho theo bớt chứ một mình tôi... mệt lắm.

  • LÊ NGUYÊN NGỮTrong bối cảnh rạt rào gió bấc và nắng trải vàng như mật bên ngoài báo hiệu Tết sắp vê, con ngựa cũng đứng dạng bốn chân như lắng nghe câu chuyện đầy hoài niệm mà Tư Gồng bắt đầu kể tôi nghe. Giản dị vì đây là câu chuyện về chính nó, Tư Gồng trước kia đã lần khân hẹn khất với tôi chờ đến Tết Con Ngựa. Mà lúc này thì đã là cuối tháng chạp rồi.

  • NGUYỄN QUANG LẬPChiều ba mươi tết, Quỳ đạp xích lô ra ga, tính đón khách chuyến tàu vét rồi gửi xích lô, bắt xe đò về quê. Vừa vào sân ga, tàu chưa về đã có khách gọi, may thế. Khách là một trung niên mặt rỗ, quần bò áo thun, kính đen gọng vàng.

  • ĐỖ KIM CUÔNG1... Cho đến lúc sực tỉnh, tôi mới nhận ra con đường ra cánh đồng tôm và những vườn dừa dưới chân núi Đồng Bò.

  • HỒNG NHU Xóm phố nằm trên một khu đất trước đây là một dẫy đồi nghe nói vốn là nơi mồ mả dày đặc, phần lớn là mồ vô chủ không biết từ bao đời nay; và cũng chẳng biết nơi nào có nơi nào không, bởi vì gần như tất cả mồ mả ở đó đều đã bị thời gian mưa gió bào mòn, chẳng còn nấm ngôi gì cả.

  • TRẦN HẠ THÁP1*Gã nằm xuống thoải mái. Cảm giác mát lạnh của ghế đá còn rịn hơi sương buổi sớm thu giúp gã chợp mắt ngay. Công viên thành phố không chỉ là bạn đời của những ai không nhà, các tên chích choác, kẻ sống ngoài vòng luật pháp... Đây cũng là nơi khá thân quen đối với người như gã. Ít ra đã hơn bốn tháng qua, từ khi gã rời một khách sạn năm sao trong thành phố.

  • THÁI KIM LAN"Làm sao biết từng nỗi đời riêngĐể yêu thương yêu cho nồng nàn”                              Trịnh Công Sơn

  • THÁI KIM LAN(tiếp theo)

  • NGUYỄN ĐẶNG MỪNGLGT: Cuộc sống cứ lao về phía trước, song những tâm hồn đa cảm thì lại hay ngoảnh nhìn về phía sau. Nước nhảy lên bờ là ánh nhìn về những ngày đã qua giữa một vùng quê bình yên của “đêm trước đổi mới”. Một bức tranh quê sống động, dung dị song ngổn ngang những cảnh đời, những cảnh tình mà chúng ta không được phép quên, bởi tư duy đổi mới của đất nước hãy còn tiếp diễn...

  • VĨNH NGUYÊNNgô - bạn tôi rủ tôi về làng Chẻ.Đến thành phố H.H., tôi mượn chiếc xe máy của một người quen. Tôi chở Ngô về làng An Hải Trung.

  • I. Nàng là nhân vật chính của vở kịch. Vở kịch đang diễn ra. Những chủ đề về tình yêu và hôn nhân, về ước mơ và sự thật, về hoài vọng và định mệnh, về sinh ly và tử biệt, v.v và v.v... đan chéo và quyện chặt vào nhau, tạo nên một trường nghĩa lơ mơ lan man đầy ảo dị mà qua đó, những nhân vật còn lại cứ tông tốc xoay xỏa quanh một nhân vật trung tâm đang chơi trò mê hoặc: nhân vật chính.

  • Đó là lần thứ mười Malio quay về góc phố ấy. Phố hẹp, những căn nhà mặt tiền nhấp nhô, khách sạn lấp lánh đèn chen cửa hàng tơ lụa, phòng tranh sơn mài phương Đông sát với những quán cà phê nho nhỏ bài trí kiểu Tây phương...

  • Năm 1966 thầy Phan Linh dạy Toán lớp 7A tại trường cấp II xã Phúc Giang. Đó là năm chiến tranh phá hoại rất ác liệt. Máy bay Mỹ cứ nhằm những tụ điểm đông người thả bom. Học sinh đến trường phải đội mũ rơm. Để tránh bom đạn trường Phúc Giang phải sơ tán về các làng, các xóm học tạm. Lớp 7A của Phan Linh sơ tán về làng Mai.

  • Gió từ đại dương lồng lộng thổi qua cửa sông, qua bãi cát trắng xoá rồi vỗ đập vào những tàu lá dài ngoằng của loài dừa nước, oà vỡ những thanh âm xạc xào.

  • Đúng sáu năm tôi không trở lại thành phố ấy dẫu rằng trong lòng tôi luôn luôn có một nỗi ham muốn trở lại, dù trong sáu năm tôi giấu kín trong lòng mình điều đó, chôn thật sâu trong suy nghĩ của mình, chẳng hề nói ra.

  • Chúng tôi tìm được địa điểm chốt quân khá lý tưởng. Đấy là chiếc hang đá ở lưng triền núi; hang cao rộng vừa lõm sâu vào vách núi. Cửa hang được chắn bởi tảng đá khổng lồ, rất kiên cố; dù máy bay Mỹ có phát hiện thấy cửa hang mà phóng rốc két, đánh bom tấn thì người ở trong hang vẫn chẳng hề gì! B52 có rải thảm bom thì lại càng không ăn thua.

  • Sau khi dọn bàn ghế xong, bà Lan chọn chiếc bàn kê sát ngoài cửa ngồi trang điểm. Từ ngày mở quán, bà đâm ra có thói quen ngồi trang điểm như thế, vừa tiện việc mời chào khách, vừa có đủ ánh sáng đầu ngày.

  • Chiếc váy của Tuyl Cleng va quệt không ngớt vào mấy vạt cỏ hai bên vệ đường. Những chỉ hoa văn ở riềm váy trông như hai cánh tay chạy như bay xuống đồi. Cuốn vở học trên tay cô nhịp nhàng lên xuống như chiếc quạt diễn viên múa. Mùa xuân sắp đến, trời đất như rộng rinh thêm. Những con chim trao trảo, chèo bẻo, ta li eo... cũng hót vang bên rặng rừng, vui lây theo nỗi vui của Tuyl Cleng.

  • Ven Hồ Gươm ở phía lề đường bên phải, cách chân tượng vua Lê Thái Tổ ước ngoài trăm mét, luôn có một bồ đoàn. Bồ đoàn là chừng dăm tấm thảm Tầu rải sàn nhập lậu từ các tỉnh phía Bắc được các gia đình Hà Nội trung lưu ưa dùng.

  • 1Sau lần đi gặt thuê cho đồng bào dân tộc ở Vĩnh Thạnh về, tôi bị trận sốt rét nặng. Dai dẳng trở đi trở lại gần ba tháng mới khỏi. Những ngày sau đó, trong người thấy cứ nôn nao, bứt rứt.