Hồi còn học ở Trường Đại học Sư phạm Huế, tôi có hai người bạn, hợp thành một nhóm, thường uống rượu với nhau khi vui cũng như khi buồn.
Lê Hoa người Đà Nẵng, trước tôi hai khoá nhưng dang dở nên học lại năm cuối. Thoạt đầu tôi không hợp tính Lê Hoa bởi vì “cái bệnh” dối lòng của anh: gặp đứa con gái nào cũng chê nhưng mắt thì cứ sáng lên như sắp được yêu. Thế rồi, chịu khó gần, tôi thấy anh không đến nỗi. Hoa thích nhạc Trịnh Công Sơn, Vũ Thành An, Ngô Thuỵ Miên; thích triết học hiện sinh mà đại biểu là J.P. Sartre, Camuy; thích “Anh em nhà Karamadov” của Đốt. Trong cái lò như thiêu như đốt của Sử học, lúc nào cũng “chiến dịch”, “diễn biến”, “kết quả”, “ý nghĩa lịch sử” ... ít có những anh chàng sinh viên “ngoại đạo” như Lê Hoa. Tôi đến với anh vì sự tương hợp này.
Nguyễn Minh Đức quê Quảng Bình, lại nằm trên mạn tít tắp “chốn khỉ ho cò gáy”. Đức ít tuổi nhất lớp và hình hài trông cũng “khiêm tốn” như ... số tuổi vậy. Trong số bạn học, tôi hợp Đức ở chỗ tính tình thẳng thắn; yêu ghét rạch ròi và dám chơi. Đức cũng ưa lãng tử nhưng học được. Nếu nói một lời biểu dương nữa thì Đức học rất khá Nga văn, mặc dù nó luôn có mặt trong những cuộc chơi thâu đêm suốt sáng.
Cái thú uống rượu đã tạo cơ hôi cho ba chúng tôi xích lại gần nhau. Dầu vậy, trong cuộc nhậu mỗi người vẫn một tính.
Tôi thích đàm đạo, và xem bữa rượu như một cuộc chơi nhẹ nhàng. Con người là sản phẩm của tạo hoá tại sao con người không theo gương của tạo hoá mà chơi cho thoả chí. Chơi giúp ta thư giãn tinh thần, tìm lại sinh lực đã hao mòn vì công ăn việc làm khổ nhọc. Chơi giúp ta thanh thoát tâm hồn mà tìm đường ngay nẻo chánh trong cuộc đời.
Lê Hoa lại thích kể những chuyện xa lắc xa lơ mang sắc thái người hùng Zoro thấp thoáng có Lê Hoa “vang bóng một thời”. Biết tính Lê Hoa, thi thoảng tôi chen vào một vài câu tán dương vô thưởng, vô phạt; nhưng anh lấy làm đắc ý: “Đúng! Phát hiện đúng”. Nói xong cười khà khà...
Nguyễn Minh Đức thì lặng lẽ uống và lặng lẽ rót như một cái máy. Chỉ khi nào hết mức “chịu sầu” thì nhảy vào tranh cãi một điều gì đó, thậm chí là bắt bẻ nữa. Nhưng không ai trả lời thì cũng thôi, rồi quên.
Thật lạ lùng, trong cảnh thiếu và đói đúng nghĩa của cuộc sống sinh viên chúng tôi vẫn cứ kiếm ra rượu để uống.
Năm tháng như nước chảy qua cầu, biết bao cuộc rượu nhạt nhoà trần ai trôi dọc đường đời làm sao nhớ hết. Nhưng tôi không thể nào quên được – vào một đêm sau cơn bão cả thành phố Huế mất điện, trời mưa tầm tã, cư xá tối om như một đêm xa nào trong cổ sử. Tôi, Hoa và Đức cùng bàn cách giải sầu. Khổ nỗi trong túi vét nhẵn không đọng lấy một xu. Hoá ra mình còn nghèo hơn cái nghèo của Nguyễn Bính “ Hôm qua còn sót hơn đồng bạc. Hai đứa rủ nhau uống rượu say ”. Ôi, chén rượu quan hà! Nơi nào là bến đỗ của Nguyễn Bính trong những ngày lăn lóc ở xứ sở Thần Kinh.
Thế rồi, ba anh em cũng quyết định ra đi tìm rượu uống. Một chiếc xe đạp cà tàng, một chiếc áo mưa đã cũ nhưng chưa rách đủ chở và che 3 thằng người đi trên đường phố. Lên đến gần Ga Huế, quẹo về đường Nguyễn Huệ, chúng tôi tạt vào một quán cóc bên đường và hồn nhiên kêu rượu uống. Chừng như đã lâu quán vắng khách nên bà chủ đon đả chào mời và đáp ứng nhu cầu của khách thật mau lẹ. Rượu, mồi và một ít thuốc lá được mang ra. Chừng ấy đủ cho ba chúng tôi đốt cháy cơn sầu và cũng để thắp lên những cơn sầu kế tiếp không dứt .“ Rót đi, rót rót nữa đi. Rót đau lòng ấy vào đau lòng này ” – Nếu không phải dân nhậu thứ thiệt làm sao hiểu nổi cái thần tình trong câu thơ của thi sĩ Trần Huyền Trân. Trong mỗi chén rót cho nhau là nỗi đau lòng người, nỗi đau nhân thế pha lẫn nồng cay men rượu chứ phải đâu chỉ có rượu suông?! Bởi thế vui cũng rượu, buồn cũng rượu; hợp cũng rượu, li tan cũng rượu; tiệc mừng thọ người sống cũng rượu, tiễn đưa nhau về nơi nguyên quán vĩnh hằng như người xưa đã nói “sinh ký tử quy” cũng rượu; thậm chí trong Khúc hát Lương Châu (Lương Châu từ) của Vương Hàn đời Đường, người lính phản chiến còn say khướt nằm ở sa trường và xin các bác đừng cười ( Tuý ngoạ sa trường quân mạc tiếu ). Rượu đích thị là văn hoá -Văn hoá rượu. Đó là đề tài mà ba thằng “ba say chưa chai” chúng tôi đàm đạo, kết luận rồi gật gù tán dương. Riêng Lê Hoa hôm ấy còn được tôi đặt thêm cho biệt danh Thăng Hoa sướng quá, cười khà khà...
Bà chủ quán hẳn quen với lối nói bốc phét của dân nhậu “uống say coi trời bằng chai”, nhưng chắc chưa bao giờ nghe những lời tỉnh không ra tỉnh mà say không phải say của ba thằng khách trời ơi hôm ấy. Có điều bà cố chịu sầu mà hy vọng vào chút tiền lãi để chung chi vào những ngày kế tiếp. Nào có biết đâu, tàn cuộc khách xin cắm nợ. Trong ánh đèn leo lắt tôi thấy sắc mặt bà xìu như một chiếc bóng bóng bị châm thủng, thật tội nghiệp:
- Trời ơi, quán tui nghèo ri mà mấy cậu nợ lấy chi ngày mai tui bán?
- Thưa dì, chỉ hôm mai bọn con sẽ tới trả.
- Mần răng tui tin các cậu được khi không hề quen biết.
- Thưa dì, bọn con là sinh viên, bọn con nghèo thì nghèo chứ không quỵt nợ.
- Úi dà! Cũng đã khối người đến nợ quán tui xưng là sinh viên, tui thương tình cho nợ, rồi họ đi biệt.
- Thôi chừ ri, bọn con đưa cái này cho dì để làm tin.
- Có cái chi mấy cậu đưa đây. Cái thẻ chi nhỏ nhỏ rứa?
- Dạ, thẻ sinh viên có họ tên và ảnh của bọn con đó ạ!
- Tui không lấy, cái thẻ ni mấy cậu vất khi mô mà chẳng được. Tui lấy mần chi. Thôi, đưa cái áo mưa xấu xấu ni đây. À, thêm cây bút nơi túi áo cậu nớ nữa.
Cuộc đôi co cuối cùng cũng đi đến kết thúc, chúng tôi ra về, có điều chiếc áo mưa che chung và cây bút máy (Hồng Hà hay Kim Sinh gì đó) của Đức ở lại. Cũng may là bà chủ quán không nhìn thấy chiếc đồng hồ của Lê Hoa. Dọc đường về Lê Hoa bất chợt “Thăng Hoa” rủ vào quán uống cà phê. Ô kê! Chơi luôn. Cả ba cùng vào quán, dưới ánh đèn dầu leo lắt, mưa lay phay tạt ướt hết mặt bàn. Câu chuyện ở đây diễn biến thế nào trong cơn men lơ mơ tôi không còn nhớ được, chỉ nhớ cô bé hầu bàn hôm ấy nhẹ nhàng và xinh đáo để. Rồi trả tiền, cũng cái điệp khúc như lần uống rượu, được nghe cô bé Huế nói mấy câu trước khi chiếc đồng Hồ Pônjôt của Lê Hoa trao lại, thôi cũng sướng. Ba thằng người ra về trong trạng thái lâng lâng, mặc kệ mưa, mặc kệ gió và mặc kệ luôn cả cõi nhân gian này.
Đó là bữa rượu uống theo kiểu Lưu Linh trong đời mà sau này dầu được tham dự nhiều cuộc nhậu tưng bừng, nhà hàng sang trọng, mồi mè ăm ắp, thậm chí có cả người đẹp phục vụ tôi vẫn có cảm giác “ Vui là vui gượng kẻo mà. Ai tri âm đó mặn mà với ai ”; không thể sánh bằng cuộc nhậu thê thiết giữa lòng Huế của Hoa, Đức và tôi được.
Theo Nguyễn Hùng - NhoHue.org
THANH TÙNG
Nhạc sĩ Phạm Duy không phải người Huế, nhưng qua những lần dừng lại ở Huế ông đã cho ra đời nhiều giai điệu trữ tình và nhiều hình ảnh đẹp, sâu lắng, trong đó thấp thoáng nhiều bóng hồng xứ Huế.
NGUYỄN QUANG HÀ
Để giữ gìn thành phố Huế, chính quyền miền Nam tổ chức nhiều đồn bốt để bảo vệ. Ở phía Nam Huế có đồn An Cựu gần núi Ngự Bình.
HUY CẬN - XUÂN DIỆU
(Trích)
DƯƠNG PHƯỚC THU
Ngày 22/7/2021, Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế tổ chức buổi tọa đàm khoa học lấy ý kiến cho Đề án xây dựng Phòng Truyền thống Văn học Nghệ thuật tỉnh Thừa Thiên Huế, kể từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến nay.
DƯƠNG HOÀNG
Trải qua những năm tháng đấu tranh giải phóng dân tộc tập hợp dưới ngọn cờ của Mặt trận Dân tộc Thống nhất, nhân dân Thừa Thiên Huế đã từng bước được rèn luyện, thử thách trong gian khó và cùng lớn lên với những tên gọi, những hoạt động, nhiệm vụ cũng thay đổi qua từng giai đoạn để phù hợp hơn với hoàn cảnh thực tại của phong trào cách mạng.
HÀ KHÁNH LINH
Còn sống sót sau 30/4/1975 chúng tôi thường tìm đến nhau dẫu có người thân thể không còn nguyên vẹn, hoặc mắc một số bệnh nào đó do di chứng của chất độc hóa học màu da cam Diocine của Mỹ, hoặc bị sốt rét ác tính, hoặc bị tra tấn khi rơi vào tay giặc…
NGUYỄN QUANG HÀ
Chừng 9 giờ tối anh em du kích ra đón chúng tôi ở nghĩa trang làng.
PHƯỚC HOÀNG
Ngày 23 tháng 8 năm 1945, tại sân vận động Huế, trước sự chứng kiến của hơn một vạn người, nhà thơ Tố Hữu, Chủ tịch Ủy ban khởi nghĩa Thừa Thiên tuyên bố, chính quyền đã về tay nhân dân, đồng thời ra mắt Ủy ban Nhân dân Cách mạng lâm thời Thừa Thiên.
MẶC HY
(Nhớ về nhạc sĩ Nguyễn Hồng và các bạn văn nghệ hy sinh 40 năm trước)
MINH ĐẠO
Khi tôi viết nhưng dòng này, tôi không còn nhìn thấy gì nữa. Bóng tối bao phủ lấy tôi đã 10 năm qua rồi.
DƯƠNG PHƯỚC THU
Nhà báo - Đại tướng Võ Nguyên Giáp, tên khai sinh Võ Giáp, sinh ngày 25 tháng 8 năm 1911, tại làng An Xá, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình trong một gia đình nhà nho yêu nước, mà thân phụ là một “thầy đồ” trường huyện.
XUÂN HOÀNG
Hồi ký
(Trích Chương V, tập II - "Trường tư thục Thuận Hóa")
PHẠM PHÚ PHONG
Người già thường hay nghĩ ngợi về quá khứ. Không biết có phải vì thế hay không mà khi đọc lại Biên niên Sông Hương[1], tôi bỗng nhớ đến một cuộc hội thảo về Tạp chí Sông Hương diễn ra cách đây gần tròn 37 năm.
VŨ THỊ THANH LOAN
1. Lemur Nguyễn Cát Tường là một họa sĩ trẻ tài năng của khóa IV trường Mỹ thuật Đông Dương (1928 - 1933). Sau khi tốt nghiệp, ông thường xuyên cộng tác với báo Phong Hóa, Ngày Nay của Tự Lực Văn Đoàn.
HOÀNG THỊ NHƯ HUY
Chiếc áo dài đầu tiên đời tôi được mẹ may vào năm tôi lên Đệ Thất (lớp 6 bây giờ). Biết nói sao niềm vui sướng của tôi khi lần đầu mặc chiếc áo dài ấy!
TRẦN TRUNG SÁNG
Khoảng mùa đông 1970 - 1971, khi đang còn đang học lớp 10, trong một chuyến phiêu lưu lãng mạn và rồ dại nhất của tuổi thiếu niên, tôi có lần lạc bước đến một xóm nhỏ gần bên cầu Gia Hội, và đã gặp ông: họa sĩ Lê Vinh, người họa sĩ vẽ tranh xi-nê lừng danh nhất xứ Huế thời bấy giờ. Lúc này, ông chừng độ tuổi 30, người dong dỏng, tóc vuốt ngược, sơmi màu, quần jean, giày cổ cao, dáng dấp phong trần, như bước ra từ màn bạc!
HOÀNG PHƯỚC
Ngày 6 tháng 1 năm 1946, cuộc bầu cử Quốc hội khóa đầu tiên sau Cách mạng Tháng Tám đã thành công rực rỡ, tiếp đó, ngày 24 tháng 2 năm 1946, cử tri toàn tỉnh Thừa Thiên phấn khởi nô nức đi bầu Hội đồng Nhân dân tỉnh và Hội đồng Nhân dân thành phố Huế. Đây là ngày hội lớn chưa từng có trong lịch sử của toàn thể Nhân dân Việt Nam sau ngày đất nước được độc lập.
TRẦN NGUYÊN HÀO
Năm 1946, lần đầu tiên toàn thể người dân Việt Nam được hưởng và thực thi quyền làm chủ, tự do lựa chọn bầu ra những người đại diện xứng đáng gánh vác công việc chung của đất nước; cùng với đó là những tư tưởng về dân chủ, pháp quyền của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại bài học giá trị cho mai sau.