Chất thơ và ý đạo

09:12 29/12/2009
NGUYỄN ĐÔNG NHẬTĐọc xong tập sách do họa sĩ Phan Ngọc Minh đưa mượn vào đầu tháng 6.2009(*), chợt nghĩ: Hẳn, đã và sẽ còn có nhiều bài viết về tác phẩm này.

Bìa sách "Thơ - thi pháp và chân dung" - Ảnh: art2all.net

Tập chuyên luận về Thơ dày gần 500 trang (gồm 26 bài chọn lọc, viết trong khoảng 1963 - 2008), là kết tinh của tâm huyết và tài năng của một người Việt yêu tiếng Việt, am tường văn học Việt, đã giúp người đọc hiểu được những điều cơ bản về một nội dung phức tạp: thi pháp; và những tác gia Việt Nam từ Nguyễn Trãi qua Tản Đà, đến các thi sĩ thời Thơ mới và những nhà thơ đương đại như Bùi Giáng, Chính Hữu, Phạm Tiến Duật... Trong khuôn khổ bài giới thiệu sách, chỉ xin được nhìn công trình này từ một góc nhỏ: Chất thơ và Ý đạo.

Người làm công việc phê bình thơ thường bị đứng trước hiểm họa: viết biên khảo thì cần “rõ ràng”, trong khi, thơ không bao giờ là sản phẩm “ngó thấy biết liền”, mà, “thơ là một ngôn ngữ tự lấy mình làm cứu cánh” (tr. 12), là “địa hạt gắn bó con người và cũng chia rẽ con người ghê gớm nhất”. Giải pháp được chọn lựa: trình bày những kiến giải chuyên môn bằng cách viết “nên thơ”, với một ngôn ngữ giản dị. (Giản dị, cái đích cuối cùng của mọi khổ công nghệ thuật).

Trước hết, là cái nhìn mới: viết về bà Huyện Thanh Quan, chưa ai nhìn thấy “sự e dè nôn nả trong người phụ nữ muôn nơi và muôn đời” (tr.132) ở giọng thơ vốn được đóng khung trong cách gọi quen: cổ kính, trang nhã. Ấy là, khi kết thúc bài viết về nhà nhân chủng học Claude Le’vi Strauss, “chợt nhớ” đến nhà ngữ học Việt Nam Nguyễn Tài Cẩn: “Cái gì thân thì cũng xa, có khi xót xa” (tr.39).

Cách nói đầy chất thơ như thế có trong suốt tập sách.

Từ nhận thức rằng, “thơ ca là một thành tố tất yếu và năng động của nhân loại” (tr.67), tác giả đã đi đến một định nghĩa thấu đáo về thơ: “Câu thơ hay là một thoáng trần gian” (tr.62).

Đến đây, thì không còn là chuyện văn chương nữa, mà đã chuyển sang lĩnh vực triết học: Thơ như một nỗ lực vươn tới mối tương quan giữa người với người, giữa người và thế giới. (Đấy mới là “thơ thật”). Bởi vì, không nên tìm kiếm ở thơ những cái đã có sẵn của ngoại giới, Bởi vì, thơ là một thế giới riêng, mà để “gặp” được nó, người đọc phải tìm cách thâm nhập trạng thái tâm hồn của tác giả trong khi sáng tạo bài thơ.

Đây là khát vọng mang tính lý tưởng, đồng thời, lại là ước muốn có màu sắc... bi kịch. Ví như, kết thúc bài viết về Nguyễn Trãi, nhà phê bình đã chạm tới sự Hiểu - Ngộ này: “Tôi chỉ ân hận là chưa có điều kiện viết sâu hơn. Nhưng nghĩ cho cùng, những mối tình lớn trong đời mình, sống, sống còn chưa trọn. Nói, nói làm sao nói hết” (tr.116).

Hay như, khi viết về L. Strauss, Đặng Tiến nói: “Levi Strauss là một kẻ hoài nghi” (tr.37). E rằng, đó chỉ là cách nói quen, bởi, tiếp liền, là trích dẫn Strauss: “...muốn sống, phải làm như là sự vật có ý nghĩa; đó là triết lý tạm bợ của cuộc đời, nhưng là triết lý cấp 2...”. Vậy, triết lý... cấp 1 là gì, nếu không là sự thăng hoa tâm linh? L. Strauss không hoài nghi (cả ĐT cũng vậy). Đấy chỉ là sự hoài - nghi - cần - thiết (phất phơ ảnh bóng của tiến trình “đại nghi - đại ngộ” trong Phật giáo). Để dẫn đến nhận thức: Không có giá trị nào mãi mãi không thay đổi. Cụ thể hơn: từ một loại thể thơ cổ, tác giả trực cảm được qui luật của vũ trụ (“Phải chăng, cả vũ trụ được tổ chức theo biền lệ”- tr.70). Cái Ý Đạo nói ở đoạn trên, không phải là niềm tin hay nhận thức tôn giáo mà là sự “chạm tới” nhịp điệu của Dòng Sống: những Khả Hữu và Bất Khả. Và, nghệ thuật là nỗ lực của con người nhằm biến cái bi kịch thành cái Đẹp.

Phê bình thơ, như thế, đã “vượt biên” chức năng chuyên môn. Để giúp con người đến với nhau nhiều hơn...

Một “lục lọi” đáng chú ý: định giá lại Đinh Hùng, thi sĩ bị bỏ quên lâu nay: qua đời đã 43 năm, ngày nay, đọc lại, thơ ông vẫn còn những ngõ ngách chưa khám phá hết.

Và một “nêu ra” khác: Nụ cười trong và đôi mắt sáng của Hoàng Trúc Ly. (Dù. có hơi “nghiêng” tình cảm về thi sĩ này: Trong một số câu thơ của HTL, ngôn ngữ không có được độ bền cao...). (Ở đây, cũng có thể là chuyện cái “tạng” của mỗi người khi đến với thơ).

Thêm một chút ghi chú cần thiết cho lĩnh vực phê bình văn học: “Văn chương và tư tưởng hiu hắt vì những biểu đồng tình, bùng cháy nhờ những bất đồng ý...(tr.78). Câu này, viết từ năm 1970. Bây giờ, vẫn đúng. Sẽ còn đúng.

Để kết: Bài giới thiệu sách này là một sự... vô ích: những lời ngắn và nhỏ, trước một công trình rộng. Vậy nên, mượn ý đã viết hơn 20 năm trước: nói về thơ bao nhiêu cho đủ / hãy cho thơ tự nói lời thơ để... chấm hết: “Thơ - thi pháp và chân dung” là tiếng nói ấm chân tình, đa thanh. Và, độc lập.

Và, dẫu cho “lời nói rồi cũng phôi pha” (tr.146), nhưng, tin vui: nghe đâu, sách sắp được tái bản?

N.Đ.N
(250/12-09)


------------
(*) Thơ - thi pháp và chân dung - Đặng Tiến - NXB Phụ Nữ - quý I/ 2009.



 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LTS: Tháng 9 vừa qua, tại Huế, người cháu ruột gọi Bà Hoàng Thị Kim Cúc bằng Cô là Hoàng Thị Quỳnh Hoa đã xuất bản và giới thiệu cuốn “LÁ TRÚC CHE NGANG - CHUYỆN TÌNH CỦA CÔ TÔI”. Cuốn sách đã trưng dẫn ra nhiều tư liệu trung thực về sự thật chuyện tình giữa Hàn Mặc tử và Hoàng Thị Kim Cúc mà lâu nay trên văn đàn có nhiều thêu dệt khác nhau.

  • Họ tên: Dương Thị Khánh
    Năm sinh: 1944
    Quê quán: Thừa Thiên Huế
    Hiện ở: 71 đường 3 tháng 2, thành phố Đà Lạt

  • HỒ LIỄU

    Trần Thị NgH [bút danh khác là Thọ Diên] tên thật là Trần Thị Nguyệt Hồng, sinh 18/4/1949 tại An Xuyên, Cà Mau. Năm mười tuổi bắt đầu đọc thơ. Bắt đầu viết văn từ năm 1968.

  • LTS: Nhân kỷ niệm 15 năm ngày mất của thi sĩ Bùi Giáng (17/12/1926 - 7/10/1998), sáng 14/9 tại Trường ĐH KHXH&NV TP.HCM đã diễn ra buổi tọa đàm khoa học, thu hút 25 tham luận của nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu và khoảng 400 người đến dự.

  • CHINGHIZ AIMATỐP

    Dưới đây cuộc trao đổi ý kiến giữa Irina Risina, phóng viên báo Litêraturnaia Gazeta với nhà văn Ch. Aimatốp ít lâu sau Đại hội lần thứ 8 của các nhà văn Liên Xô.

  • BÙI VIỆT THẮNG 

    (Đọc Thuyền trăng - Tập thơ của Hồ Thế Hà, Nxb. Văn học, 2013)

  • TRẦN THÙY MAI

    Tôi biết chị Võ Ngọc Lan từ khi còn làm việc ở Nxb. Thuận Hóa, lúc đó tôi được giao biên tập cuốn Niệm khúc cho mưa Huế của chị.

  • YẾN THANH

    Năm nào đó, hình như tôi đã trồng ở đây một cây ưu tình, cây đã ra hoa lẫn vào màu xanh ngõ vắng, và đã dẫn tôi đến một miền trắng xóa như một giấc mơ đổ vỡ bên trời.
    (Ngõ Huế - Hạ Nguyên)

  • TRUNG SƠN

    100 NĂM NGÀY SINH BÁC SĨ NGUYỄN KHẮC VIỆN (1913 - 2013)

  • Các tạp chí văn nghệ ở các địa phương trong những năm qua đã đóng góp rất nhiều vào dòng chảy văn học Việt Nam. Đó là nơi góp sức hình thành tên tuổi của nhiều tác giả, tác phẩm từ các địa phương trước khi soi vào gương mặt chung của nền văn học nước nhà, là nơi giữ gìn bản sắc văn hóa văn nghệ của mỗi vùng đất, là nơi khởi thủy của những khuynh hướng sáng tạo mới...

  • NINH GIANG THU CÚC

    Tôi đọc Tim Tím Huế của Bùi Kim Chi bằng tâm trạng, và tâm cảm mình là một kẻ đang được dự phần trong cuộc hành hương về vùng trời hạnh phúc, về thiên đường của tuổi măng tơ, về lứa tuổi mà ai đó đã rất tự hào và trân quý khi họ viết.

  • NINH GIANG THU CÚC

    Tôi đọc Tim Tím Huế của Bùi Kim Chi bằng tâm trạng, và tâm cảm mình là một kẻ đang được dự phần trong cuộc hành hương về vùng trời hạnh phúc, về thiên đường của tuổi măng tơ, về lứa tuổi mà ai đó đã rất tự hào và trân quý khi họ viết.

  • THÁI KIM LAN

    Đầu năm 1999, nhà Văn hóa Thế giới ở Berlin gửi xuống Muenchen cho tôi ngót chục bài thơ, nhờ chuyển ngữ sang tiếng Đức cho tuần lễ văn hóa Việt Nam tại Berlin vào cuối tháng 3 năm ấy. Như thường lệ không đắn đo, tôi sốt sắng nhận lời.

  • LÊ MINH PHONG

    Đừng đặt tên cho họ…
    Có thể họ còn vô vàn những cuộc phiêu lưu khác nữa.

                               (Robbe - Grillet)

  • PHAN TRẦN THANH TÚ

    “Chính anh là người đã nhẫn tâm với bản thân mình khi tôn thờ chỉ có một điều duy nhất” (Đoản khúc số 97)

  • KỶ NIỆM 123 NĂM NGÀY SINH CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH

    TRẦN HIẾU ĐỨC

  • HOÀNG HƯƠNG TRANG 

    Chữ Quốc Ngữ (Q.N) viết theo dạng 24 chữ cái ABC xuất xứ từ các Thầy Dòng truyền giáo Tây Phương mang vào nước ta, cho đến nay gọi là được phổ biến trên dưới trăm năm, gói gọn vào thế kỷ 20.

  • THỤY KHỞI

    Lần hồi qua những trang thơ Lê Vĩnh Thái mới thấy chất liệu thơ từ Ký ức xanh (2004), Ngày không nhớ (2010) cho đến nay Trôi cùng đám cỏ rẽ(*) (2012) hẳn là sự hối hả của dòng chảy ký ức miệt mài băng qua những ghềnh thác thời gian, mà ở độ tuổi của anh có thể bị ăn mòn.

  • Hoàng Minh Tường

    Nhà văn, nhà báo Lê Khắc Hoan xuất hiện và gây ấn tượng trên văn đàn khá sớm: Năm 1959, khi đang là giáo viên trường Hoằng Thắng, huyện Hoằng Hóa, Thanh Hóa, Lê Khắc Hoan đã có truyện ngắn đầu tay Đôi rắn thần trong hang Pa Kham đoạt giải Khuyến khích báo Thống Nhất (Nguyễn Quang Sáng giải Nhất với truyện ngắn Ông Năm Hạng).

  • LÊ HUỲNH LÂM  

    Khi thơ như một tấm gương phản chiếu tâm hồn của tác giả, phản ánh nhận thức của người sáng tạo với cuộc sống quanh mình, chiếc bóng trong tấm gương ấy là một phần của sự thật. Đôi khi sự thật cũng chưa được diễn đạt trọn vẹn bằng ngôn ngữ của nhà thơ.