Chân dung con ngựa đua hết thời

14:45 30/03/2009
LÊ HUỲNH LÂM                 (Đọc Viết bên Hộ Thành hào - thơ Nguyên Quân -, Nxb Thuận Hoá, 2009)Giữa những đổ nát hoang tàn quá khứ và hiện tại, khi mà thang giá trị bị đảo lộn, những mảnh vỡ đang vung vãi mọi nơi, tác giả lại tìm đến Hộ Thành hào để nhìn ngắm cõi lòng đang hỗn hênh mọi thứ và như chợt nhận ra niềm hy vọng mỏng mảnh, anh đã Viết bên Hộ Thành hào.

Cũng như hồi ký viết dưới hầm của Dostoievsky, hay những trang nhật ký giữa thời chiến, tác giả Viết bên Hộ Thành hào một với tâm trạng trắng bệch giấc mơ câm và cũng là viết về một quá khứ của những con ngựa đua hết thời, uể oải bước qua ngày thật chậm, để rồi bỗng dưng buồn nôn tiếng hí. Tác phẩm giúp người đọc liên tưởng đến những thân phận dạt trôi lên bãi bờ ẩm mục/ chồng chất bầy ốc mượn hồn. Bằng nhịp điệu của con ngựa đua lạc bầy, nhìn thảo nguyên phố thị với ánh mắt hoang dã, con ngựa đó đã thả những bước chậm buồn của những chiếc móng sắt. Những hình ảnh phố hội ngày càng trở nên lạnh lùng, xa lạ. Trong khi đó con ngựa lạc loài luôn hoài niệm và khao khát trở về những thảo nguyên bạt ngàn nắng gió với những chiếc vó tung tự do giữa những đồng cỏ xanh bất tận.

Không biết đã bao nhiêu triệu lần tác giả đã ngang qua Hộ Thành hào, mỗi lần đi qua những vòng cung lớn nhỏ, con tim đều rung lên những cung bậc của cảm xúc và đôi khi đó là những cung bậc vô cảm. 
những gương mặt thất thần
mù tuổi - mù tên - mù những điều không thật
.
Cả hai trạng thái kia đều diễn đạt sự thật của một tâm hồn, thật đáng trân quý. Chỉ e rằng, trong thời đại này những điều không thật lại được quá nhiều người nhào nặn qua lớp ngôn từ nguỵ trá để đánh lừa ngay chính mình và cả người đọc.

Ở đây, Nguyên Quân đã từng sống trong chuỗi
ngày trôi thật chậm qua cơn đau
của những chiếc móng sắt…
khi mà trên lưng những chàng kỵ mã đã
hằn sâu nhiều vết roi bội bạc
đặc quánh lời tung hô ma mị.

Vậy đó, phải sống với những lời tung hô ma mị để mỗi khi chiều xuống, ánh nắng nghiêng như vết gươm của vị anh hùng áo vải ngày xưa chém xuống Hộ Thành hào, như muốn:
sắp xếp lại trật tự âm thanh của ngày
trong từng cơn mưa mẩy mình qua mặt.
Và khi nghiêng chén ngang bầu trời xám đục, bất chợt tác giả nhớ thằng bạn:
vừa mọc cánh bay theo chiều thẳng đứng không gian
chui lọt qua lỗ kim lên thiên đường còm cõi
và trong
cái cay xé mắt lên khuôn mặt
đầy vết chai sần
bôi nhoè u mê hồn nhiên mê tín
từ những cuộc chơi sặc mùi ảo tưởng

Để rồi chiều cuối năm chợt thấy lòng trống rỗng trong chén rượu cỏ cú màu hổ phách.
Và trong trạng thái trống rỗng đó, bất chợt tác giả nhận ra:
Cái thằng bí hiểm vô lương
vuốt nhẹ lên vòm ngực bật khóc
hỡi những ngọn đèn mù
của những gã tiên tri điên loạn
thời băng hoại rao giảng tình yêu

Sự cô độc của tác giả giúp người đọc liên tưởng đến chiều ba mươi tết của những thập niên trước, khi nền văn hoá chưa bị sự mê đắm vật chất và thói hư danh bao phủ. Thuở đó, vào ngày cuối năm, trên những con đường xứ Huế, từng bước chân người thưa dần, chỉ còn gió và những cọng cỏ, một vài mảnh giấy bay giữa lòng đường, thật lâu mới hiện ra một mặt người nửa cười nửa khóc… Buổi chiều ba mươi tàn tạ theo màu trời:
Chiều ba mươi
về lang thang với Huế
lòng như cổ thành loang lổ thời gian

Đôi nghê đá
Không dưng mà rười rượi
đứng lặng bên đường mắt ngó mông lung

chiều ba mươi
Huế cuộn mình trong gió
chạm khẽ vào nhau cái rét muộn màng

Và rồi, giữa những ngày mưa mịt mù, tác giả đã tâm sự cùng con búp bê đời rẻ rúng đã bị những thằng người bệnh hoạn, chơi ngông ném trong từng góc tối, ôi những thằng người nguỵ tín, xa rời với tổ tiên:
ơi con búp bê đời rẻ rúng ném trong từng góc tối
ngủ qua đêm ác mộng
vòng xoáy tâm thần
trần truồng vòng tay lạ lẫm
cổ thành dày cơn mưa
phủ rêu con đường lát đá tháng chạp
hãy giặt sạch từng mùa gió chướng
gột rửa bệnh hoạn của những thằng người
chơi ngông
như đốm pháo hoa bắn thẳng lên trời
chớp sáng những quyền năng hư ảo

Khi đã nhận ra những quyền năng hư ảo, tác giả đã
đặt bàn tay bỏng rát lên bệ thờ âm vật
và cảm nhận
quá khứ phất phơ trên từng bông phượng cúng
ta ôm chiếc bình ngũ sắc
bơi qua dòng nại hà
hoá vàng tuổi đời cho từng bia mộ

Cuối cùng tác giả như nhận ra rằng, trong tất cả những thứ ảo tưởng thì ảo tưởng thi ca là sang trọng nhất ở trần gian này, cho dù:
Trên đỉnh núi rỗng không
Trên xác thân rách nát của bạn bè
Mà không một lời vọng… A…

Huế, 6/02/2009
   L.H.L
241/03-09

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LGT:Rainer Maria Rilke (1875 – 1926) người Áo, sinh tại Praha, đã theo học tại Praha, Muenchen và Berlin triết học, nghệ thuật và văn chương, nhưng không hoàn tất. Từ 1897 ông phiêu lưu qua nhiều nước Âu châu: Nga, Worpswede (Ðức) (1900), Paris (1903) và những nước khác trong và sau thời thế chiến thư nhất (Thụy sĩ, Ý…). Ông mất tại dưỡng viện Val-Mont vì bệnh hoại huyết.

  • Giới thiệu tập thơ đầu tiên của anh Khúc ru tình nhà thơ Ngô Minh viết: “Toàn từng làm thơ đăng báo từ trước năm 1975. Hơn 20 năm sau Toàn mới in tập thơ đầu tay là cẩn trọng và trân trọng thơ lắm lắm”.

  • 1. Trước khi có cuộc “Đối thoại với Cánh đồng bất tận” trên báo Tuổi trẻ tháng 4. 2006, Nguyễn Ngọc Tư đã được bạn đọc biết đến với tập truyện ngắn Ngọn đèn không tắt, giải Nhất trong cuộc vận động sáng tác Văn học tuổi XX (lần 2) năm 2000, được tặng thưởng dành cho tác giả trẻ của Uỷ ban toàn quốc Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật Việt Nam năm 2000, giải B của Hội Nhà văn Việt Nam năm 2001…

  • Nhân ngày 9/5 chiến thắng phát xít Đức.

  • ...Đưa người ta không đưa qua sôngSao có tiếng sóng ở trong lòng?...

  • Những năm đầu sau ngày miền giải phóng, có mấy lần nhà thơ Xuân Diệu vào các tỉnh Nam Trung Bộ và dừng ở Nha Trang ít ngày. Đến đâu Xuân Diệu cũng nói chuyện thơ, được người nghe rất hâm mộ, đặc biệt là giới trẻ.

  • Có nhiều khi trong đời, “trôi theo cõi lòng cùng lang thang” như Thiền sư Saigyo (Nhật Bản), bất chợt thèm một ánh lửa, một vầng trăng. Soi qua hương đêm, soi qua dòng văn, soi qua từng địa chỉ... những ánh lửa nhỏ nhoi sẽ tổng hợp và trình diện hết thảy những vô biên của thế cuộc, lòng người. “Trong mắt tôi” của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã là ánh lửa ấy, địa chỉ ấy.

  • 1. Kawabata Yasunari (1899 -1972) là một trong những nhà văn làm nên diện mạo của văn học hiện đại Nhật Bản. Ông được trao tặng giải Nobel năm 1968 (ba tác phẩm của Kawabata được giới thiệu với Viện Hoàng gia Thụy Điển để xét tặng giải thưởng là Xứ Tuyết, Ngàn cách hạc và Cố đô).

  • (Thơ Đỗ Quý Bông - Nxb Văn học, 2000)Đỗ Quý Bông chinh phục bạn hữu bằng hai câu lục bát này:Đêm ngâu lành lạnh sang canhTrở mình nghe bưởi động cành gạt mưa.

  • Thạch Quỳ là nhà thơ rất nhạy bén trong việc nắm bắt thông tin và chóng vánh tìm ra ngay bản chất đối tượng. Anh làm thơ hoàn toàn bằng mẫn cảm thiên phú. Thơ Thạch Quỳ là thứ thơ có phần nhỉnh hơn mọi lý thuyết về thơ.

  • Kỷ niệm 50 năm ngày mất nhà văn Nam Cao (30.11.1951-30.11.2001)

  • Có một con người đang ở vào cái tuổi dường như muốn giũ sạch nợ nần vay trả, trả vay, dường như chẳng bận lòng chút nào bởi những lợi danh ồn ào phiền muộn. Đó là nói theo cái nghĩa nhận dạng thông thường, tưởng như thế, nơi một con người đã qua "bát thập". Nhưng với nhà thơ Trinh Đường, nhìn như thế e tiêu cực, e sẽ làm ông giận dỗi: "Ta có sá gì đi với ở".

  • Nhà thơ Trinh Đường đã từ trần hồi 15g10’ ngày 28.9.2001 tại Hà Nội, thọ 85 tuổi. Lễ an táng nhà thơ đã được tổ chức trọng thể tại quê nhà xã Đại Lộc huyện Duy Xuyên tỉnh Quảng , theo nguyện vọng của nhà thơ trước khi nhắm mắt.

  • Phan Ngọc, như tôi biết, là người xuất thân trong gia đình Nho giáo, đã từng làm nghề dạy học, từ năm 1958 chuyển sang dịch sách, là người giỏi nhiều ngoại ngữ. Hiện nay, ông đang là chuyên viên cao cấp của Viện Đông Nam Á (Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia).

  • Có những con người mà ta chỉ gặp một đôi lần trong đời để rồi mãi nhớ, mãi ám ảnh về họ. Với tôi, nhà văn Trần Dần là người như vậy.

  • Trước tình hình số tập thơ được xuất bản với tốc độ chóng mặt, người ta bỗng nhiên cảm thấy e ngại mỗi khi cầm một tập thơ trên tay. E ngại, không phải vì người ta sợ nhọc sức; mà e ngại vì người ta nghĩ rằng sẽ phải đọc một tập thơ dở! Cảm giác ấy xem ra thật là bất công, nhưng thật tình nó quả là như vậy.

  • Những năm từ 1950 khi học ở trường trung học Khải Định (Quốc học Huế), tôi đã đọc một số bài thơ của Dao Ca đăng trên một số tờ báo như Đời mới, Nhân loại, Mới, Thẩm mỹ...

  • Tôi đến tìm ông vào một buổi sáng đầu đông, trong căn nhà ngập tràn bóng tre và bóng lá. Nếu không quen ắt hẳn tôi đã khá ngỡ ngàng bởi giữa phồn hoa đô hội lại có một khu vườn xanh tươi đến vậy!.

  • LTS: Rạng sáng ngày 11-7-2001, Toà soạn nhận được tin anh Đoàn Thương Hải - hội viên Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế, sau một cơn đột quỵ, mặc dù đã được gia đình, bạn bè và các thầy thuốc Bệnh viên Trung ương Huế tận tình cứu chữa nhưng không qua khỏi, đã rời bỏ chúng ta an nhiên về bên kia thế giới!Tạp chí Sông Hương - Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế xin có lời chia buồn sâu sắc tới gia quyến nhà văn.Sông Hương số này xin giới thiệu hai bài thơ cuối cùng của anh được rút ra từ tập thơ chép tay lưu giữ tại gia đình.TCSH

  • Thơ Đặng Huy Giang xuất hiện trên thi đàn đã nhiều năm nay; song thật sự gây ấn tượng với bạn đọc phải kể đến một vài chùm thơ mà báo Văn nghệ đăng tải trên trang thơ dự thi 1998 - 2000; đặc biệt sau đó anh cho ra mắt bạn đọc hai tập thơ một lúc: Trên mặt đất và Qua cửa.