Chầm chậm dọc bờ sông hư vô với Trần Lê Khánh

15:07 07/12/2017

HỒ ĐĂNG THANH NGỌC

Thật vui mừng và ngạc nhiên, khi vừa chưa tròn năm trước, đọc tập thơ đầu tay của Trần Lê Khánh Lục bát múa (Nxb. Hội Nhà văn 2016), nay lại được cầm trên tay tập thứ hai Dòng sông không vội (Nxb. Hội Nhà văn, quý III, 2017).

Lục bát múa, những bài thơ tạo nên một vũ điệu sương khói của những chiếc lá nhiễm sương, hay một “lời gió bay” nhặt được nơi chân trời, nơi đường biên niềm tin, khiến tâm thức bàng hoàng:

“một lần thử đứng chân trời
bàng hoàng nhặt được những lời gió bay”


Thì nay, những lời thơ như những cánh hoa vô ưu trôi theo dòng nước, vọng lại những chiêm nghiệm cuộc đời trên những con sóng an nhiên.

Thế kỷ XXI đã bắt đầu bằng một cơn bão “tốc độ”, loài người tranh thủ ăn thức ăn nhanh, tranh thủ làm việc, tranh thủ nghỉ ngơi, tranh thủ yêu…; để chứng kiến những chuyến lao vun vút của dòng xe cộ, của những nốt like chớp nhoáng, của đến và đi, gặp gỡ và chia ly… Vậy mà Trần Lê Khánh trong chuyến du hành trên con thuyền thi ca của mình, đã như “dòng sông không vội”. Đó là một sự dũng cảm tách mình ra khỏi thế giới để nhìn cõi nhân gian, và đó cũng là cái rất riêng của Trần Lê Khánh.

Vậy ta gặp gì khi đi dọc bờ sông thơ Dòng sông không vội? Đó là một không gian hư vô khá quen thuộc của tầng không cao vọi đầy khói sương, nhưng đó cũng là một không gian ảo ảnh rất đặc biệt được Trần Lê Khánh vẽ nên bằng những câu thơ rất riêng của mình. Dòng sông không vội không hề có mục lục như những tập thơ thường gặp, nó khiến người đọc muốn thu nhận những gì tác giả tỏ bày, phải đi cho hết tận cùng 251 trang của dòng chảy. Tập thơ gồm mười phần, như là mười cánh cửa mở, mỗi lần ta mở một cánh cửa, ta lại được nhìn thấy một không gian riêng.

Cánh cửa thứ nhất có tên “Dòng sông không vội”. Bài thơ đầu tiên “Dấu chân của cát” mở đầu câu chuyện bằng một bức tranh hết sức lắng đọng:

“biển vắng
hạt cát lăn tròn
theo dấu chân
con kiến đếm từng hạt cát
con tim đếm từng dấu chân của cát
tận cùng không”


Ngay từ bài thơ đầu tiên, đã có thể thấy thứ thơ này không dễ đọc, hơi khó đoán nhận, nhưng người đọc có thể cảm nhận ngay một điều gì đó vừa sâu xa, vừa đầy ẩn dụ, và buộc tâm thế phải chuẩn bị cho mình một chiếc chìa khóa để đi vào cõi thơ; và không thể đi nhanh, phải đi thật chậm, vừa phiêu diêu, vừa chiêm nghiệm. Con kiến có thể dùng lý trí để đếm từng hạt cát, con tim có thể dùng cảm xúc để dõi theo dấu chân cát, nhưng thật bất ngờ, hay kết cục vốn vậy, cả hai sẽ gặp một muôn trùng hư không.

Đến bài thơ thứ hai, “Nhân ảnh”, cõi hư vô bắt đầu hiện lên rõ ràng hơn:

núi mù núi trong sương
khói lùa khói ảo thiên đường
bàn tay thuận lần mò tay nghịch
vì ngón sầu tịch mịch
bao kiếp mong cột cọng mây
được rồi, sương khói thôi bay
thì ra núi giăng mây phơi trời đất”


Hai mặt thực và ảo vùi vào nhau khiến người đời nhiều khi không nhận ra sự phù du, “bao kiếp mong cột cọng mây” chính là nỗi tham sân si giữa cuộc thế, để đến khi tất cả tan biến đi (sương khói thôi bay), sẽ nhận ra đất trời ảo mộng đó cũng chỉ là đất trời ta thấy thật bình thường.

Cái cách dẫn dắt câu chuyện của “Dòng sông không vội” có thể từ chiếc chìa khóa mông lung này. Đi hết cánh cửa thứ nhất, ta sẽ gặp những thi ảnh biến thể sinh động, như biến thể giữa “Trăng - Lá”: “lá rụng khỏi cành/ chất đầy đêm trăng”; “Lá vàng xanh/ dưới bạt ngàn lớp lớp cây cành/ một bóng trăng thanh” (Ngày như chiếc lá); “nhà sư quét lá đa/ gom thành đống mây vàng/ gió thổi bay lả tả/ những kiếp ngày đi qua”, “vầng trăng rằm đau đẻ/ những linh hồn thứ ba” (Ngọn lửa về đâu); “thấy mảnh trăng vừa tỉnh giấc/ lá vàng thương xót cây đau” (Thu là phôi pha)…

Cánh cửa thứ hai có tên là “Hư vô”, và mở đầu là “khói”:

“sân đình chật người
khói nghi ngút bao la
khuôn mặt hoa hầm hập đỏ
em cởi hư không
lau nhẹ giọt mồ hôi
cho con kỳ lân đá”


Trong bức tranh khói phủ đầy này, di chỉ ký ức (kỳ lân đá) và chút huyễn hoặc (em cỡi hư không) làm nên sự ảo diệu.

Ở bên trong cánh cửa “Hư vô” này, ta gặp những bài thơ độc sáng:

“con chim đậu trên chiếc lá vàng
kiếp sau cả hai sẽ hóa người
thành đôi tình nhân mỏi bước
tìm về gốc cây cũ
chờ nhau”

            (Về)

Có ai nghĩ con chim, chiếc lá sẽ hóa thành đôi tình nhân chờ nhau ở kiếp sau!

“lá xuống tay/ thu đỏ rực/ gió rơi lả chả trong mây/ hàng cây đau hiện nguyên hình/ thu đi rồi/ nhát chém rung rinh” (Lỡ).

Có ai nghĩ mùa thu đi qua (lá xuống tay) để lại một vết chém trên hàng cây trút lá?

Vậy mà Trần Lê Khánh lại thản nhiên như “vậy à” (tên một bài thơ), bởi sự lặp lại của lối mòn đối với nhà thơ, không khác gì một cơn ớn lạnh:

“một hôm gió thổi
chiếc lá lạnh sống lưng
khi dưới đất lộ ra bộ xương hóa thạch
của lối mòn triệu năm về trước
em đã đi qua”


Cũng bên trong cánh cửa này, ta gặp cõi “chơi vơi”, gió không định hình, sương khói không định hình, mặt trời không định hình, một cõi vô hình vô giới, vậy nên… chơi vơi. Cho đến “vô tận”:

ngày em về
con đường mòn thức dậy
dãy núi úp mặt vào bật khóc
bên kia hư vô ”


Em là ký ức hay thực tại, hay là tất cả những gì có thể, một khi cách biệt những cái đó, đã là vực thẳm, là hư vô?

Cánh cửa thứ ba “Ngày về của mây”. Bài mở đầu “tức thì” là một bài thơ hàm xúc khác:

“em đốt dĩ vãng
ngọn lửa nhổm dậy nhìn
cành củi đỏ rực
gánh gồng quá khứ lên trên”


Vậy thì cái gì là “ngày về của mây”? Hãy đọc “Dòng sông lặng lẽ”:

“mây mù nhấc núi/ núi không đi/ nhấc cây/ cây không dời/ chỉ có người bay đi mãi/ khi mây nhấc mình khỏi gió chiều nay”

Con người có thể sẽ không bay như núi và cây, nhưng khi bám vào đơn nguyên gió, có thể sẽ bay đi, tan biến vô định. Như sự tan biến của tạo hóa đã được thi hóa: “chiều, là đêm buông sớm/ buồn, là chớm biệt ly/ con sóng đến, để đi/ chiều nay áng mây khom mình lạy gió” (Nhanh quá).

Cánh cửa thứ tư “Câu gió”. Không chỉ là “đám mây khom mình lạy gió”, mà còn “câu gió”: “lá vàng như cô gái/ đong đưa/ câu buổi chiều gió/ đang mải miết đi ngang cơn mưa dài/ mùa thu cắn câu…”

Ở đó ta gặp một thoáng chân trời của một ngày mưa ướt thấm vào cả ruột cây, rễ cây, cả hạt ký ức kiếp trước. Chỉ có một người không biết ướt hay không ướt, là nhà thơ đang ngồi nhìn mưa, cố nhìn thấy đường chân trời, song lại chưa với tới:

mưa ướt thành phố bạc
ướt những chiếc lá và lòng cây
hình như, ướt luôn bộ rễ gầy
đau lòng hơn
ướt cả hạt nắng em phơi khô từ tiền kiếp

                        (Gần tới chân trời)

Ở đó ta gặp một bối cảnh “chờ tiếng chim hót”, nhà thơ sửa soạn một không gian chờ, tất cả đều chưa thức dậy vì còn chờ một tín hiệu - tiếng chim: “sương ngủ trên cây/ gió đêm ngáy trên núi/ mây nằm lăn say/ khói chìm trên mặt nước/ vì bình minh không thức dậy/ thời gian thảng thốt/ tìm gì thức thay”

Cánh cửa thứ năm “Trái tim kiến cắn”. Cái tên của cánh cửa này, nó như khiến ta cảm thấy như vừa rời khỏi những không gian mây núi cũ xưa, để trở về với thực tại ngổn ngang, hỗn độn. Như câu chuyện về một con kiến lạc bầy đi tìm đàn, bỗng lạc vào trái tim người đẹp, và làm xôn xao “trái tim kiến cắn”. Đó cũng chỉ là những giây phút giễu cợt thoáng qua, như những câu thơ tung tẩy gặp khá nhiều bên trong cánh cửa này: “người họa sĩ buông tròn cây cọ/ nỗi nhớ gãy đôi/ quặn thắt khe đá xanh/ rêu phong hấp hối trên cành/ cọ vào ngõ cụt” (Sám hối). Nhưng rồi ta sẽ gặp một triết lý cuộc đời và cái bóng - đừng mang vác bóng hư không:

“lão tiều phu
chiều chiều
vung búa bổ vào bóng mình
đã tám vạn bốn ngàn lẻ tịch lần
bó chặt từng cái bóng
nhiều bó nặng
gánh về đâu?”

            (Chẻ củi)

Ôi cuộc đời, nếu cứ chẻ bóng mình bó lại, sẽ gánh về đâu?

Cánh cửa thứ sáu là cánh cửa thẩm màu “Nỗi buồn đỏ rực”. Thi ảnh “mùa thu” ta vốn gặp khá mênh mang ở cánh cửa thứ nhất “dòng sông không vội” (thu phôi pha, thu nổi sấm trong một buổi chiều thật nhọn), thu chỉ là “mùa đông không có lá rụng”; còn ở đây, thu đầy nỗi buồn nhân thế: “mùa thu trắng tinh như tờ giấy/ vì em đã vẽ/ anh và rừng lá xưa vàng úa/ làm thu lần này/ không còn gì để phai”.

Trong cuộc tình buồn này “đêm tạnh/ con đường vắt sạch tình”, làm sao có thể hàn gắn, khi mà “em đi rồi/ chỉ còn lại vết nứt của mưa” (Hàn gắn).

Cánh cửa thứ bảy “Tuyệt đối”. Đó là khi những giọt café như những giọt linh hồn, sáng bừng nơi đáy cốc: “bầu trời đón những linh hồn cuối cùng/ thả xuống/ triệu giọt sương đen/ hỏa ngục biến thành đài sen/ từng giọt linh hồn/ thơm lừng/ bình minh sáng bừng trong chiếc cốc” (Café đen).

Cánh cửa thứ tám “Nước mắt về biển”. Cánh cửa mở ra không gian biển khơi muôn trùng sóng vỗ, như dội lại từ xa xăm câu thơ về những giọt nước mắt (tôi đứng về phía nước mắt):

“biển biết bí mật
lũ hải âu
mải mê tha muối bỏ xuống đại dương
vì kiếp trước lỡ tin nước mắt”

                        (Biển đau mặn)

Ở đó có một cánh hải âu đậu trên đá nghe sóng biển nặng đến mức in hằn dấu chân trên đá. Một tứ thơ diệu vợi:

“đêm
con hải âu đứng trên mỏm đá
cả hai cùng lắng nghe tiếng sóng biển
rì rầm bao la
vô lượng âm hưởng khác nhau
mong manh, dạt dào
hằn thành vết chân chim trên đá”

                        (Tưởng)

Cánh cửa thứ chín “Vầng trăng hóa thạch”: “nơi vầng trăng khuyết/ soi tiếng rắc hóa thạch dưới ngàn băng/ âm vực thênh thang/ thượng đế run tay trên từng nốt lặng”. Dưới vầng trăng này, ta gặp những thi ảnh quá đẹp: “chiếc lá gói mành trăng cũ/ chờ người về dưới bóng cây xưa”. Và cả sự ảo huyền:

“đêm dài u uất
bình minh mờ ảo
con cá đỏ quyết tìm sự thật mặt trăng đáy nước
nó chợt lắc đầu
đớp vào bóng lưỡi câu”

                        (Câu tưởng)

Cánh cửa thứ mười “Mùa xuân mềm”. Đó là khi nào? là khi “một hôm/ người con gái mỏi bước lang thang/ vùi đầu vào mùa xuân thiếp ngủ/ tóc rối nồng cây cỏ/ chiều lõm vào nhẹ êm”. Là khi “mùa đông như dải lụa…/ bên đường nhặt chiếc lá/ chợt thấy mỏng bàn tay” (Mùa đông mỏng).

Ở đó ta gặp những thi ảnh rất lạ:

“em vắt mùa thu
mây và lá phong chảy đi mãi
đỏ rực con đường
cạn tay em, anh ở lại
xơ xác mùi hương”

                        (Hương thu)

Hay:

“người họa sĩ choàng tỉnh dậy
gió bày lăn lóc
những mảnh vỡ mộng du
vũ trụ chần chừ
vá mùa thu bằng sợi gân bị đứt”

                        (Mảnh vỡ mộng du)

Kết thúc “mùa xuân mềm” là những câu thơ đẹp, giàu biểu cảm và ngọt ngào, cũng là những câu cuối của tập thơ:

“con đường
Mọc ra như những quả sấu

nhớ chiếc răng ngà cắn nhẹ
ngày sâu”

                        (Vị xuân)

Với những bài thơ, những câu thơ như thế, khép tập thơ bỗng lại muốn giở ra lần nữa.

Và mang nó đi dọc triền sông…

H.Đ.T.N  
(TCSH345/11-2017)




 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LÊ DỤC TÚCùng với nghệ thuật tiếp cận và phản ánh hiện thực, nghệ thuật miêu tả và khắc họa chân dung nhân vật, nghệ thuật châm biếm và sử dụng ngôn ngữ cũng là một trong những nét nghệ thuật đặc sắc ta thường gặp trong các phóng sự Việt Nam 1932 - 1945.

  • NGUYỄN VĂN DÂNTrong thế kỷ XX vừa qua, thế giới, đặc biệt là thế giới phương Tây, đã sản sinh ra biết bao phương pháp phục vụ cho nghiên cứu văn học, trong đó phương pháp cấu trúc là một trong những phương pháp được quan tâm nhiều nhất.

  • AN KHÁNHHai mươi tám năm kể từ ngày chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, đủ để một thế hệ trưởng thành, một dòng thơ định vị. Tháng 3 vừa qua, Hội Văn nghệ Hà Nội và nhóm nhà thơ - nhà văn - cựu binh Mỹ có cuộc giao lưu thú vị, nhằm tìm ra tiếng nói "tương đồng", sự thân ái giữa các thế hệ Mỹ - Việt thông qua những thông điệp của văn chương.

  • TRẦN ĐÌNH SỬ Bạn đọc Việt Nam vốn không xa lạ với phê bình phân tâm học hơn nửa thế kỷ nay, bởi nó đã bắt đầu được giới thiệu vào nước ta từ những năm ba mươi, bốn mươi thế kỷ trước. Nhưng đáng tiếc nó đã bị kỳ thị rất nặng nề từ nhiều phía. Giống như nhân loại có thời phản ứng với Darwin vì không chấp nhận lý thuyết xem con người là một loài cao quý lại có thể tiến hóa từ một loài tầm thường như loài khỉ, người ta cũng không thể chấp nhận lý thuyết phân tâm học xem con người - một sinh vật có lý trí cao quý lại có thể bị sai khiến bởi bản năng tầm thường như các loài vật hạ đẳng!

  • PHẠM ĐÌNH ÂN(Nhân kỷ niệm lần thứ 20 ngày mất của Thế Lữ 3-6-1989 – 3-6-2009)Nói đến Thế Lữ, trước tiên là nói đến một nhà thơ tài danh, người góp phần lớn mở đầu phong trào Thơ Mới (1932-1945), cũng là nhà thơ tiêu biểu nhất của Thơ Mới buổi đầu. Ông còn là cây bút văn xuôi nghệ thuật tài hoa, là nhà báo, dịch giả và nổi bật là nhà hoạt động sân khấu xuất sắc, cụ thể là đưa nghệ thuật biểu diễn kịch nói nước nhà trở thành chuyên nghiệp theo hướng hiện đại hóa.

  • THÁI DOÃN HIỂUPhàm trần chưa rõ vàng thauChân tâm chẳng biết ở đâu mà tìm.                                VẠN HẠNH Thiền sư

  • HỒ THẾ HÀ  Thi ca là một loại hình nghệ thuật ngôn từ đặc biệt. Nó là điển hình của cảm xúc và tâm trạng được chứa đựng bởi một hình thức - “hình thức mang tính quan niệm” cũng rất đặc biệt. Sự “quái đản” trong sử dụng ngôn từ; sự chuyển nghĩa, tạo sinh nghĩa trong việc sử dụng các biện pháp tu từ; sự trừu tượng hoá, khái quát hoá các trạng thái tình cảm, hiện thực và khát vọng sống của con người; sự hữu hình hoá hoặc vô hình hoá các cảm xúc, đối tượng; sự âm thanh hoá theo quy luật của khoa phát âm thực nghiệm học (phonétique  expérimentale)...đã làm cho thi ca có sức quyến rũ bội phần (multiple) so với các thể loại nghệ thuật ngôn từ khác.

  • LÊ XUÂN LÍTHỏi: Mã Giám Sinh sau khi mua được Kiều, Mã phải đưa Kiều đi ròng rã một tháng tròn mới đến Lâm Tri, nơi Tú Bà đang chờ đợi. Trên đường, Mã đâm thèm muốn chuyện “nước trước bẻ hoa”. Hắn nghĩ ra đủ mưu mẹo, lí lẽ và hắn đâm liều, Nguyễn Du viết:              Đào tiên đã bén tay phàm              Thì vin cành quít, cho cam sự đờiĐào tiên ở đây là quả cây đào. Sao câu dưới lại vin cành quít? Nguyễn Du có lẩm cẩm không?

  • CHU ĐÌNH KIÊN1. Có những tác phẩm người đọc phải thực sự “vật lộn” trên từng trang giấy, mới có thể hiểu được nhà văn muốn nói điều gì. Đó là hiện tượng “Những kẻ thiện tâm” (Les Bienveillantes) của Jonathan Littell. Một “cas” được xem là quá khó đọc. Tác phẩm đã đạt hai giải thưởng danh giá của nước Pháp là: giải Goncourt và giải thưởng của Viện hàn lâm Pháp.

  • PHONG LÊSinh năm 1893, Ngô Tất Tố rõ ràng là bậc tiền bối của số rất lớn, nếu không nói là tất cả những người làm nên diện mạo hiện đại của văn học Việt Nam thời 1932-1945. Tất cả - gồm những gương mặt tiêu biểu trong phong trào Thơ mới, Tự Lực văn đoàn và trào lưu hiện thực đều ra đời sau ông từ 10 đến 20 năm, thậm chí ngót 30 năm.

  • HẢI TRUNGHiện tượng ngôn ngữ lai tạp hay gọi nôm na là tiếng bồi, tiếng lơ lớ (Pidgins và Creoles) được ngành ngôn ngữ học đề cập đến với những đặc trưng gắn liền với xã hội. Nguồn gốc ra đời của loại hình ngôn ngữ này có nhiều nét khác biệt so với ngôn ngữ nói chung. Đây không chỉ là một hiện tượng cá thể của một cộng đồng ngôn ngữ nào, mà nó có thể phát sinh gắn liền với những diễn biến, những thay đổi, sự phát triển của lịch sử, xã hội của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia khác nhau.

  • BÙI NGỌC TẤN... Đã bao nhiêu cuộc hội thảo, bao nhiêu cuộc tổng kết, bao nhiêu cuộc thi cùng với bao nhiêu giải thưởng, văn chương của chúng ta, đặc biệt là tiểu thuyết vẫn chẳng tiến lên. Rất nhiều tiền của bỏ ra, rất nhiều trí tuệ công sức đã được đầu tư để rồi không đạt được điều mong muốn. Không có được những sáng tác hay, những tác phẩm chịu được thử thách của thời gian. Sự thất thu này đều đã được tiêu liệu.

  • NGUYỄN HUỆ CHICao Bá Quát là một tài thơ trác việt ở nửa đầu thế kỷ XIX. Thơ ông có những cách tân nghệ thuật táo bạo, không còn là loại thơ “kỷ sự” của thế kỷ XVIII mà đã chuyển sang một giọng điệu mới, kết hợp tự sự với độc thoại, cho nên lời thơ hàm súc, đa nghĩa, và mạch thơ hướng tới những đề tài có ý nghĩa xã hội sâu rộng.

  • NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã nhiều sử liệu viết về cuộc xử án vua Duy Tân và các lãnh tụ khởi xướng cuộc khởi nghĩa bất thành tháng 5-1916, mà trong đó hai chí sĩ Thái Phiên - Trần Cao Vân là hai vị đứng đầu. Tất cả các sử liệu đều cho rằng, việc hành hình đối với Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu diễn ra vào sáng ngày 17-5-1916. Ngay cả trong họ tộc hai nhà chí sĩ, việc ghi nhớ để cúng kỵ, hoặc tổ chức kỷ niệm cũng được tính theo ngày như thế.

  • PHONG LÊBây giờ, sau 60 năm - với bao là biến động, phát triển theo gia tốc lớn của lịch sử trong thế kỷ XX - từ một nước còn bị nô lệ, rên xiết dưới hai tầng xiềng xích Pháp-Nhật đã vùng dậy làm một cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại, rồi tiến hành hai cuộc kháng chiến trong suốt 30 năm, đi tới thống nhất và phát triển đất nước theo định hướng mới của chủ nghĩa xã hội, và đang triển khai một cuộc hội nhập lớn với nhân loại; - bây giờ, sau bao biến thiên ấy mà nhìn lại Đề cương về văn hoá Việt Nam năm 1943(1), quả không khó khăn, thậm chí là dễ thấy những mặt bất cập của Đề cương... trong nhìn nhận và đánh giá lịch sử dân tộc và văn hoá dân tộc, từ quá khứ đến hiện tại (ở thời điểm 1943); và nhìn rộng ra thế giới, trong cục diện sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại; và gắn với nó, văn hoá, văn chương - học thuật cũng đang chuyển sang giai đoạn Hiện đại và Hậu hiện đại...

  • TƯƠNG LAITrung thực là phẩm chất hàng đầu của một người dám tự nhận mình là nhà khoa học. Mà thật ra, đâu chỉ nhà khoa học mới cần đến phẩm chất ấy, nhà chính trị, nhà kinh tế, nhà văn hoá... và bất cứ là "nhà" gì đi chăng nữa, trước hết phải là một con người biết tự trọng để không làm những việc khuất tất, không nói dối để cho mình phải hổ thẹn với chính mình. Đấy là trường hợp được vận dụng cho những người chưa bị đứt "dây thần kinh xấu hổ", chứ khi đã đứt mất cái đó rồi, thì sự cắn rứt lương tâm cũng không còn, lấy đâu ra sự tự phản tỉnh để mà còn biết xấu hổ. Mà trò đời, "đã trót thì phải trét", đã nói dối thì rồi cứ phải nói dối quanh, vì "dại rồi còn biết khôn làm sao đây".

  • MÃ GIANG LÂNVăn học tồn tại được nhiều khi phụ thuộc vào độc giả. Độc giả tiếp nhận tác phẩm như thế nào? Tiếp nhận và truyền đạt cho người khác. Có khi tiếp nhận rồi nhưng lại rất khó truyền đạt. Trường hợp này thường diễn ra với tác phẩm thơ. Thực ra tiếp nhận là một quá trình. Mỗi lần đọc là một lần tiếp nhận, phát hiện.

  • HÀ VĂN LƯỠNGTrong dòng chảy của văn học Nga thế kỷ XX, bộ phận văn học Nga ở hải ngoại chiếm một vị trí nhất định, tạo nên sự thống nhất, đa dạng của thế kỷ văn học này (bao gồm các mảng: văn học đầu thế kỷ, văn học thời kỳ Xô Viết, văn học Nga ở hải ngoại và văn học Nga hậu Xô Viết). Nhưng việc nhận chân những giá trị của mảng văn học này với tư cách là một bộ phận của văn học Nga thế kỷ XX thì dường như diễn ra quá chậm (mãi đến những thập niên 70, 80 trở đi của thế kỷ XX) và phức tạp, thậm chí có ý kiến đối lập nhau.

  • TRẦN THANH MẠILTS: Nhà văn Trần Thanh Mại (1908-1965) là người con xứ Huế. Tên ông đã được đặt cho một con đường ở đây và một con đường ở thành phố Hồ Chí Minh. Trần Thanh Mại toàn tập (ba tập) cũng đã được Nhà xuất bản Văn học phát hành năm 2004.Vừa rồi, nhà văn Hồng Diệu, trong dịp vào thành phố Hồ Chí Minh dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Trần Thanh Mại, đã tìm thấy trang di cảo lưu tại gia đình. Bài nghiên cứu dưới đây, do chính nhà văn Trần Thanh Mại viết tay, có nhiều chỗ cắt dán, thêm bớt, hoặc mờ. Nhà văn Hồng Diệu đã khôi phục lại bài viết, và gửi cho Sông Hương. Chúng tôi xin cám ơn nhà văn Hồng Diệu và trân trọng giới thiệu bài này cùng bạn đọc.S.H

  • TRẦN HUYỀN SÂMLý luận văn học và phê bình văn học là những khái niệm đã được xác định. Đó là hai thuật ngữ chỉ hai phân môn trong Khoa nghiên cứu văn học. Mỗi khi khái niệm đã được xác định, tức là chúng đã có đặc trưng riêng, phạm trù riêng. Và vì thế, mục đích và ý nghĩa của nó cũng rất riêng.