Cảnh quan và tâm tưởng trong Thơ mới nhìn từ ‘thực thể biển’

14:43 10/06/2022

LÝ HOÀI THU

Văn học Việt Nam 1930 - 1945 nói chung và thơ ca nói riêng hình thành, vận động và phát triển trên nền cảnh bùng nổ nhiều phương diện của bước ngoặt hiện đại hóa.

Ảnh: internet

Khi cảm quan hiện thực, quan niệm thẩm mỹ đổi thay, tất yếu sẽ dẫn đến những biến chuyển của hệ hình thi pháp. Trong ngôi nhà vừa được tân trang ấy, thơ là thể loại ghi dấu ấn nổi đậm nhất bởi được hưởng “ân huệ” từ khát vọng duy tân mạnh mẽ của chủ thể sáng tạo cùng sự ưu ái chào đón nồng nhiệt của cộng đồng tiếp nhận. Phong trào Thơ mới, vì vậy, là thành tựu rực rỡ, là hiện tượng “độc nhất vô nhị” của tiến trình hiện đại hóa, từ đó mở ra “một thời đại” cho thi ca với tầm ảnh hưởng sâu rộng đến diễn trình văn học Việt Nam thế kỷ XX. Bên cạnh sự hiện diện thanh tân của tiểu thuyết Tự lực văn đoàn, nguồn năng lượng dồi dào cùng sự thăng hoa độc đáo của Phong trào Thơ mới đã mang đến một sức sống trẻ trung, tạo nên sự khởi sắc và diện mạo đặc biệt phong phú của văn chương lãng mạn; góp phần đắc lực quyết định sự thắng thế của một giai đoạn rất cần những đột phá táo bạo để thiết lập một “đế chế” mới mang tên hiện đại trong bản đồ văn học dân tộc.

Phong trào Thơ mới được coi là hiện tượng tiêu biểu bởi nó tích hợp được nhiều phẩm tính đặc thù/ nổi bật của sáng tạo nghệ thuật từ giao thoa văn hóa Đông - Tây đến xung đột cũ - mới, từ những chuyển đổi của cảm hứng nghệ thuật đến hình thức dụng ngôn… Nhìn từ lý thuyết Phê bình cảnh quan (Landscape Criticism), trào lưu thơ ca này đã hội tụ trong nó tinh thần và triết lý riêng qua những trải nghiệm không gian và những va chạm văn hóa. Diễn tả một cách tinh tế, sâu sắc mối quan hệ, sự liên thông/ tương tác giữa khách thểchủ thể, cảnh quantâm tưởng, các nhà thơ đã mang đến những đối thoại mới về sự hiện tồn của bản ngã và tha nhân trong mênh mang vũ trụ… Dịch chuyển từ phạm trù cổ điển sang hiện đại, cảnh quan thiên nhiên trong Thơ mới chịu sự chi phối bởi những nguyên tắc thẩm mỹ của phương pháp lãng mạn - một trào lưu nghệ thuật luôn đề cao con người cá nhân. Đặc biệt hơn đối với thơ, khi cái tôi chủ thể, một dạng ký hiệu/ loại hình nhân vật đặc thù sắm vai chính của màn giao tiếp nghệ thuật là người phát ngôn và tâm điểm trong thế giới trữ tình. Thay vì lệ thuộc vào hệ thống “thi ảnh” đã được chắt lọc, qui tụ vào một số motif kinh điển “phong, vân, tuyết, nguyệt”; “mai, lan, cúc, trúc”… của thi pháp trung đại, Thơ mới đã phá bỏ những ước lệ sáo mòn, nhào nặn và tái lập một “thi giới” mới trên tinh thần hiện đại hóa. Cảnh quan thiên nhiên không còn hiện hữu một cách chung chung mà in đậm dấu ấn cá thể hóa. Mỗi bức tranh thiên nhiên đồng thời cũng chính là bức họa đồ tâm cảnh mang cốt cách riêng của từng nhà thơ. Cùng với sự hiện diện của cái tôi, việc khước từ những lối mòn quen thuộc để tạo bước đột phá mới về thi pháp đã khẳng định sự đa dạng, mới mẻ trong tiếp cận, chiếm lĩnh và tái tạo thiên nhiên của Phong trào Thơ mới. Đó là một bước phát triển mang tính cách tân so với những “khuôn vàng thước ngọc” nhưng khá gò bó, cứng nhắc và chật hẹp của thi pháp cổ điển.

Khi cái bản ngã cá nhân đóng vai trò chủ thể giao tiếp, là sự thể hiện đầy đủ quan niệm nghệ thuật về đời sống con người thì cảnh quan thiên nhiên sẽ hiện hữu trong thế giới trữ tình bằng góc nhìn của cái tôi nghệ thuật đã được cá thể hóa. Dù viết về hoa lá cỏ cây, hay sông núi biển trời, một vầng trăng, một áng mây, làn gió… thì chung qui đó vẫn là giai điệu tâm hồn, là sự phân thân của cái tôi. Vật thể ngoại giới đã được sở hữu, trở thành câu chuyện riêng tư của mỗi cá nhân. Thực thể biển - một không gian chiếm ba phần tư dung tích của trái đất; tự bao đời đã là hệ sinh thái nuôi dưỡng nguồn cảm xúc lai láng của thi nhân và thực sự là “trường tương tư” bao la, rộng mở. Đến với biển, người thơ dễ dàng tìm được mối đồng cảm, đồng điệu giữa cảnh sắc và tâm trạng. Trong Thơ mới, biển cũng là một kiểu nhân vật trữ tình truyền tải các cung bậc cảm xúc, trạng thái vui buồn của thi nhân. Dẫu rằng, khi bản ngã cá nhân cần được đề cao, quyết liệt, mạnh mẽ, nhà thơ đã tìm đến hình ảnh non cao chót vót: “Ta là Một, là Riêng, là Thứ nhất/ Không có chi bè bạn nổi cùng ta” (Hy Mã Lạp Sơn - Xuân Diệu); song khi buồn và cô đơn trở thành tâm thế chung của cả một thế hệ thi nhân, các nhà thơ lại tìm đến biển. Sự mênh mông, vô định của muôn dặm trùng khơi là một ẩn dụ đồng điệu với tần số cảm xúc của tâm hồn lãng mạn. Thực thể biển bao la, rợn ngợp gợi về một không gian cái tôi cá nhân chao đảo, lạnh giá. Đường viền giữa vật thể và tâm tưởng trở nên “mờ nhòe”, người ta chỉ có thể định vị bằng trực giác:

Bốn bề ánh nhạc biển pha lê
Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề
Sương bạc làm thinh, khuya nín thở
Nghe sầu âm nhạc đến sao Khuê

          (Nguyệt cầm - Xuân Diệu)

Biển trong thơ Xuân Diệu trước 1945, vì vậy, bao giờ cũng gợi lên nỗi cô đơn, trống trải, sự thiếu vắng những mối tình tri kỷ tri âm giữa tình nhân với tình nhân, giữa thi nhân với thế nhân. Thông qua motif quen thuộc của văn chương lãng mạn và câu chuyện “tình một đêm” của giang hồ - kỹ nữ, Xuân Diệu đã khơi sâu vào tâm thái và bi kịch tinh thần của một thế hệ văn nghệ sĩ, trí thức. Sự can dự của biển đã khiến kết cấu không - thời gian trở nên chao đảo và nhân vật chính đã rơi vào tình cảnh tận cùng đơn độc cả từ trong tâm can đến ngôn ngữ thân thể:

Chớ đạp hồn em!
Trăng từ viễn xứ
Đi khoan thai lên ngự đỉnh trời tròn;
Gió theo trăng, từ biển thổi qua non;
Buồn theo gió lan xa từng thoáng rợn.
Lòng kỹ nữ cũng sầu như biển lớn
Chớ để riêng em phải gặp lòng em;
Tay ái ân du khách hãy làm rèm,
Tóc xanh tốt em xin nguyền dệt võng.
Đẩy hộ hồn em triền miên trên sóng,
Trôi phiêu lưu không vọng bến hay gành
Vì mình em không được quấn chân anh,
Tóc không phải những giây tình vướng víu.
Em sợ lắm. Giá băng tràn mọi nẻo;
Trời đầy trăng lạnh lẽo suốt xương da.
Người giai nhân: bến đợi dưới cây già
Tình du khách: thuyền qua không buộc chặt.

                         (Lời kỹ nữ - Xuân Diệu)

Đồng điệu với mặc cảm thân phận lạc thời, cô đơn, trống vắng, nhỏ nhoi trước bao la biển cả của Xuân Diệu là trường hợp Phạm Hầu với bài thơ Vọng hải đài nổi tiếng của ông. Hình ảnh du khách lẻ loi với tư thế trữ tình hướng ra biển cả mù khơi xa xăm như nhân lên sự trống trải của tâm hồn. Biển như là hiện tồn của vô định, thể hiện sự bất lực trong tìm kiếm, đón đợi bạn lòng của thi nhân:

Chẳng biết trong lòng ghi những ai?
Thềm son từng dội gót vân hài…
Đưa tay ta vẫy ngoài vô tận
Chẳng biết xa lòng có những ai?

           (Vọng hải đài - Phạm Hầu)

Nhà thơ Đông Hồ với Chơi Bạch Tháp động cũng có mối xúc cảm đồng sóng đồng lòng khi ký thác tâm tư, tình cảm thương nhớ của mình vào mây ngàn gió biển. Mặc dầu thơ Đông Hồ còn lệ thuộc vào lối “ngụ tình cổ điển” và từng bị gán mác “rượu mới bình cũ” nhưng bài thơ được viết năm 1945 này đã chạm tới cái tôi cá nhân với nhiều nỗi niềm, uẩn khúc, ưu tư:

Bạch Vân thăm dấu cũ
Bạch Tháp nhớ người xưa
Người Bạch Vân đã vắng
Động Bạch Vân còn trơ…
Hỏi mây, mây làm ngơ
Nhìn đá lòng ngơ ngẩn,
Trông mây dạ thẫn thờ
Kim cổ màu rêu phủ
Tang thương bóng nhật mờ…

        (Chơi Bạch Tháp động - Đông Hồ)

Tác giả Phạm Huy Thông vốn nổi tiếng trong Phong trào Thơ mới bằng Tiếng địch sông Ô mang dáng dấp, hùng khí tráng ca. Cũng viết về sóng nước, với giọng điệu dìu dặt, thiết tha, ở bài thơ Tiếng sóng, thông qua biểu đồ thời gian sáng, trưa, chiều, tối, nhà thơ đã diễn tả được sự cộng hưởng khá nhịp nhàng giữa những cung bậc âm thanh của tiếng sóng và giai điệu tâm tình của một hồn thơ dồi dào sinh lực, tựa “một luồng gió mạnh” (Hoài Thanh):

Có nhiều sáng, gió mơ màng dìu dặt
Ánh bình minh vàng dịu dãi màu tươi…
Có những trưa gay gắt, nắng tưng bừng
Đỉnh chói lòa, ánh sáng như kim cương…
Có nhiều chiều đẫm tắm bóng thê lương,
Cùng gió thảm từng hơi dài tấm tức…
Có nhiều đêm đen tối như địa phủ,
Sóng dữ dội như ma thương kêu rú…
Không bao giờ, không bao giờ ngớt tiếng du dương
Hỡi sóng! Đàn thần tiên muôn thu réo rắt.
Tiếng lòng ta cũng không bao giờ ngớt
Tiếng mơ màng ca nhịp buồn vui

             (Tiếng sóng - Phạm Huy Thông)

Nhìn chung: từ “cái biểu đạt” đến “cái được biểu đạt”, đối diện thực thể biển, các nhà Thơ mới đã tìm được tiếng nói chung khi phóng chiếu cái nhìn nhuốm đậm màu sắc chủ quan đến vật thể ngoại hiện để tự khám phá kích thước cái tôi cá nhân: từ Phạm Hầu, Đông Hồ đến Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu; từ Quách Tấn đến Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên… Riêng trường hợp Phạm Huy Thông với âm điệu trữ tình khỏe khoắn, hình tượng thơ bay bổng ẩn chứa nhiều khát vọng chính là gương mặt tiêu biểu cho khuynh hướng vượt thoát - một trong những dấu hiệu đặc trưng mang tính tích cực của chủ nghĩa lãng mạn nói chung và thơ ca lãng mạn nói riêng.

Hiện diện song song cùng cái bao la vô tận của biển, dải đất duyên hải cũng là nơi sinh tụ, là miền giao cảm lớn trong Thơ mới 1932 - 1945. Đây là vùng đất “địa linh nhân kiệt” lưu giữ nhiều dấu tích lịch sử/ trầm tích văn hóa của cộng đồng cư dân Việt trong hành trình lập quốc. Nổi bật hơn cả là những sáng tác của nhóm tác giả có gốc gác, sinh ra và lớn lên từ mảnh đất ven biển Trung Bộ, nơi “sông suối dày tơ nhiện” và “núi choài ra biển” (thơ Phạm Ngọc Cảnh)… Đó là Lưu Trọng Lư, thi sĩ luôn chìm đắm triền miên trong cõi mộng nhưng Tiếng thu dẫu mơ màng, ảo diệu vẫn chứa đựng hệ thống thi ảnh đẹp mà chân thật về một vùng đất phía nam Hoành Sơn (Đèo Ngang) vừa có đồi núi vừa có biển: từ một làn “nắng mới hắt bên song” đến “chiếc cáng diều” lơ lửng trên sườn non giữa “ngàn thông còn đắm mộng thân yêu”, từ một vầng trăng nội “mơ màng/ trên những làn tóc rối” đến phong cảnh “trời nước mênh mông” trên bãi biển quê nhà… Là Hàn Mặc Tử nhờ mối “tình quê” sâu đậm cùng sự gắn bó với cội nguồn ruột thịt đã tạo được những nét vẽ tươi tắn cho thế giới nghệ thuật thơ. Thay thế những “bào ảnh, huyền diệu, phiếu diễu, chiêm bao” đã từng ngự trị là những sắc màu cuộc sống được cảm nhận một cách trực quan, sinh động:

Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời
Bao cô thôn nữ hát trên đồi
Ngày mai trong đám xuân xanh ấy
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi

           (Mùa xuân chín - Hàn Mặc Tử)

Đi từ ngoại cảnh hướng đến nội tâm; bài thơ được kết lại bằng lời tự vấn như một sự chuyển đổi trạng thái cảm xúc vốn là sở trường trong tư duy khiến mạch thơ  Hàn Mặc Tử luôn có sự vận động đa chiều, khó có thể nắm bắt, đoán định và tiềm ẩn nhiều bất ngờ, thú vị. Hình bóng người con gái xứ biển với gánh nặng mưu sinh cơ hàn, cực nhọc cuối bài thơ thực sự là một ám ảnh xúc động và cảm thương:

Khách xa gặp lúc mùa xuân chín
Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng
Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trăng nắng chang chang?

            (Mùa xuân chín - Hàn Mặc Tử)

Đó còn là Quách Tấn, tác giả Mùa cổ điển già dặn, “kỹ tính” hơn so với bạn hữu thi nhân cùng thời vì còn nhiều vương vấn với bút pháp Đường thi nhưng khi đối diện với những hình ảnh thực, các đường nét về tạo vật và con người trong thơ ông không còn vẻ cứng nhắc gò bó mà mềm mại, chân thực hơn: Chim mang về tổ bóng hoàng hôn,/ Vàng lửng lơ non biếc đọng cồn./ Cành gió hương xao hoa tỉ muội;/ Đồi sương sóng lượn cỏ vương tôn./ Khói mây quanh quẩn hồi chuông vọng,/ Trời biển nôn nao tiếng địch dồn./ Thương cảnh ông câu tình tự quá!/ Thuyền con chở nguyệt đến cô thôn. (Chiều xuân - Quách Tấn). Là Tế Hanh lai láng, nồng đượm nguồn cảm xúc khi viết về nơi “chôn rau cắt rốn” thân thương của mình. Bức tranh đời sống của một vùng cư dân biển Trung Trung bộ được hiện lên qua những nét vẽ hồn hậu, chân phương, căng tràn sức trẻ của một cây bút đang độ tuổi “hoa niên”: Làng tôi vốn làm nghề chài lưới/ Nước bao vây, cánh biển nửa ngày sông./ Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng,/ Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá./ Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã,/ Phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt trường giang./ Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng./ Rướn thân trắng bao la thân góp gió… (Quê hương - Tế Hanh), v.v và v.v... Với tầm nhìn xa, dưới nhãn quan địa văn hóa/ sinh thái học, rất dễ để nhận thấy cố đô Huế và “cái nôi nghệ thuật” Quy Nhơn, Bình Định là hai bức khảm lớn mang căn tính địa/ sử văn hóa, hai vùng đất qui tụ nguồn thi hứng của nhiều nhà thơ và đã lưu lại trong kho tàng thơ ca Việt Nam nhiều thi phẩm đặc sắc.

Nằm ở vị trí khá trung tâm của miền duyên hải Trung Trung Bộ, Huế mang dung nhan diễm lệ, là nguồn cảm hứng bất tận của thi ca nhạc họa. Khác với cái bình dị, mộc mạc của những làng chài ven biển, mảnh đất cố đô hiện lên với dáng dấp, thần thái “đẹp và thơ”; trữ tình, nên thơ đến từng hình ảnh, chi tiết nhỏ, ngay cả khi chủ thể của bức tranh thơ là người lao động bình dân:

Thuyền nan đủng đỉnh sau hàng phượng,
Cô gái Kim Luông yểu điệu chèo.
Tôi xuống thuyền cô, cô chẳng biết,
Rằng Thơ thấy Đẹp phải tìm theo…
Đăm đăm mắt mỏi vì chèo,
Chèo cô quấy nước trong veo giữa dòng
Biết không? Cô hỡi, biết không?
Chèo cô còn quấy, sóng lòng còn xao?

                    (Đẹp và Thơ - Nam Trân)

Huế đẹp bởi có núi Ngự soi bóng dòng Hương Giang trong xanh, mỗi khi chiều về bóng hoàng hôn hắt xuống lại chuyển thành màu tím tạo nên màu tím Huế huyền thoại bao đời. Huế cũng rất đỗi nồng nàn bởi sắc đỏ rực lửa của những đóa phượng vĩ, da diết nhớ thương bởi cầu Trường Tiền “sáu vài mười hai nhịp” và trầm mặc, sâu sắc vời vợi bởi đền đài, lăng tẩm uy nghiêm… Song trên nền cảnh ấy không thể thiếu vắng bóng hình người con gái Huế: Trai thời trong Quảng ra thi/ Gặp cô gái Huế chân đi không đành (Ca dao miền Trung). Đây chính là một kiểu nhân vật trữ tình, dịu dàng, đằm thắm níu giữ từng bước chân, thu hút mọi ánh nhìn của du khách thập phương: Một hàng tôn nữ cười trong nón/ Sông mở lòng ra đón bóng yêu (Bài thơ Huế - Quỳnh Dao). Thi sĩ Hàn Mặc Tử cũng đã từng gửi tâm tình về Huế, bày tỏ nỗi nhớ nhung, xao xuyến, bâng khuâng về một giai nhân vừa như thực, vừa như mơ: Sao anh không về chơi thôn Vĩ?/ Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên./ Vườn ai mướt quá xanh như ngọc,/ Lá trúc che ngang mặt chữ điền…/ Mơ khách đường xa, khách đường xa,/ Áo em trắng quá nhìn không ra./ Ở đây sương khói, mờ nhân ảnh,/ Ai biết tình ai có đậm đà? (Đây thôn Vĩ Dạ - Hàn Mặc Tử).

Cùng viết về địa danh thôn Vĩ Dạ - một không gian trữ tình giàu chất thơ, một khuôn viên cây lá đậm sắc Huế, thi sĩ Bích Khê đã để lại hai câu thơ vừa tả cảnh, vừa ngụ tình đặc sắc: Vĩ Dạ thôn, Vĩ Dạ thôn/ Biếc che cần trúc không buồn mà say (Huế đa tình - Bích Khê). Cảnh sắc Huế, dù chọn góc nhìn nào cũng mang thần thái, hồn cốt riêng: gần gũi, thân thương trong những nét đặc tả đời thường (Huế, ngày hè; Huế, đêm hè - Nam Trân) nhưng cũng rất đỗi lung linh, kỳ vĩ qua nỗi niềm hoài cổ “thâm trầm, u tịch” mà vẫn tiềm ẩn nhiều khát vọng của một cây bút quá nặng lòng với quá khứ:

Trôi đi thuyền! Cứ trôi đi xa nữa!
Vỗ giăng khuya bơi mãi! Cánh chèo mơ!
Lòng ta là những thành quách cũ,
Tự ngàn năm bỗng vẳng tiếng loa xưa.

           (Lòng ta là những thành quách cũ - Vũ Đình Liên)

Quy Nhơn, Bình Định được coi là “thánh địa” của Trường thơ loạn - một nhóm phái tác giả mê đắm bút pháp tượng trưng, siêu thực. Vì lẽ đó, cảnh quan tạo vật trăng, gió, núi, mây của một dải đất thiêng đã được cảm nhận và hiển thị trong thơ với nhiều khác lạ và ám gợi dị thường. Đó là vũ trụ trong suốt đến giá lạnh của Trăng, trăng, trăng là trăng, trăng, trăng trong thơ Hàn Mặc Tử; là ánh sáng huyền ảo bồng bềnh của Yến Lan: Bến My Lăng nằm không thuyền đợi khách/ Rượu hết rồi, ông lái chẳng buông câu/ Trăng thì đầy rơi vàng trên mặt sách/ Ông lái buồn để gió lén mơn râu/ Ông không muốn run người ra tiếng địch/ Chở mãi hồn lên tắm bến trăng cao (Bến My Lăng - Yến Lan); là sắc màu biến ảo trong thơ Bích Khê: Trăng gây vàng, vàng gây lên sắc trắng/ Của gương hồ im lặng tựa bài thơ (Mộng cầm ca - Bích Khê); là những ảnh hình vụt hiện của Quỳnh Dao: Đêm nay sáng, đêm nay rằm/ Trăng như e lệ đương nằm trong cây/ Bỗng luồng gió đậu cành say/ Cành nao nao xuống… trăng bay ra ngoài (Nụ cười trong mơ - Quỳnh Dao) v.v. Rõ ràng, từ một hình ảnh thực giữa thiên nhiên vĩnh hằng, bằng lối tư duy thiên về ảo giác, các chủ thể của Trường thơ Bình Định đã nhào nặn và tái tạo nên nhiều “dị bản” trăng độc đáo của riêng mình. Điều đó cũng phản ánh năng lực chiếm lĩnh thế giới từ cổ mẫu trăng của các nhà thơ theo khuynh hướng tượng trưng/ siêu thực.

Không hiện diện trên trang thơ bằng vẻ đẹp lung linh, lan tỏa và có sức mê hoặc như hình tượng trăng, hình bóng những Tháp Chàm bí ẩn lưu giữ dấu tích Chiêm Thành của vùng đất Bình Định cũng là một nguồn cảm xúc tạo dấu ấn, bản sắc cho một miền thơ, và đặc biệt hơn là đã làm nên tên tuổi của nhà thơ Chế Lan Viên. Bằng một danh xưng khá xa lạ, thi nhân họ Chế đã hóa thân vào hình tượng cái tôi trữ tình mang căn cước Chiêm quốc để cảm nhận sâu xa hơn sự “điêu tàn”, hoang phế, tiêu vong của một vương triều. Nỗi đau thương, sầu hận về một vương quốc Chàm bị hủy diệt đã đẩy trường liên tưởng trong thơ Chế Lan Viên về quá vãng dị thường, siêu thực:

Đây những tháp gầy mòn vì mong đợi,
Những đền xưa đổ nát dưới thời gian.
Những sông vắng lê mình trong bóng tối.
Những tượng Chàm lở lói rỉ rên than.

          (Trên đường về - Chế Lan Viên)

Từ ký ức lịch sử hoàn toàn “vay mượn”: Thành Đồ Bàn cũng thôi không nức nở/ Trong sương mờ huyền ảo lắng tai nghe/ Từ một làng xa xôi bao tiếng mõ/ Tan dần trong yên lặng của đồng quê (Đợi người Chiêm nữ - Chế Lan Viên); nhà thơ đã gửi gắm vào đó rất nhiều tâm sự, nỗi đau, sự bất lực và bế tắc:

Rồi cả một thời xưa tan tác đổ
Dấu oai linh hùng vĩ thấy gì đâu?
Thời gian chảy, đá mòn, sông núi lở.
Lòng ta luôn còn mãi vết thương đau

        (Thời oanh liệt - Chế Lan Viên)

Cảnh quan và cảnh quan thiên nhiên là hữu thể vật chất của tồn tại khách quan, đồng thời cũng chính là đối tượng thẩm mỹ của văn học nghệ thuật. Phong trào Thơ mới là một trào lưu thơ ca đã tạo dựng hệ giá trị bền vững, trong đó có nguồn kinh nghiệm thẩm mỹ quí giá. Là một không gian ghép nằm trong “thế giới của sự sống” (Husserl) muôn màu; việc tiếp cận quần thể biển/ duyên hải thông qua chân dung cái tôi trữ tình - cái tôi chủ thể giúp chúng ta cảm hiểu sâu sắc hơn đời sống cũng như diễn biến nội tâm phức hợp của một thế hệ thi nhân yêu đời và đau đời, giàu khát vọng nhưng đôi khi lâm vào bế tắc… Hành trình từ cái tôi/ bản ngã trong Thơ mới 1932 - 1945 đến cái tôi/ bản thể trong thơ ca đương đại là hành trình xuyên thời gian, “xuyên văn hóa”; đặng cho con người khẳng định nhân vị, tìm lại chính mình, “định vị” và “tái định vị” được sự hiện diện của mình giữa cõi thế và tha nhân. Đó chính là thông điệp giàu tính nhân văn bởi vì con người là biểu tượng văn hóa cao cấp và việc khám phá đời sống con người luôn là câu chuyện muôn đời của văn học nghệ thuật.

L.H.T
(TCSH399/05-2022)
 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN VĨNH NGUYÊNNhững năm gần đây, người ta tranh luận, ồn ào, khua chiêng gõ mõ về việc làm mới văn chương. Nhất là trong thơ. Nhưng cái mới đâu chẳng thấy, chỉ thấy sau những cuộc tranh luận toé lửa rốt cục vẫn là: hãy đợi đấy, lúc nào đó, sẽ... cãi tiếp...

  • TRẦN VĂN LÝAi sản xuất lốp cứ sản xuất lốp. Ai làm vỏ cứ làm vỏ. Ai làm gầm cứ làm gầm. Nơi nào sản xuất máy cứ sản xuất máy. Xong tất cả được chở đến một nơi để lắp ráp thành chiếc ô tô. Sự chuyên môn hoá đó trong dây chuyền sản xuất ở châu Âu thế kỷ trước (thế kỷ 20) đã khiến cho nhiều người mơ tưởng rằng: Có thể "sản xuất" được thơ và sự "mơ tưởng" ấy vẫn mãi mãi chỉ là mơ tưởng mà thôi!

  • HOÀNG VŨ THUẬTChúng ta đã có nhiều công trình, trang viết đánh giá nhận định thơ miền Trung ngót thế kỷ qua, một vùng thơ gắn với sinh mệnh một vùng đất mà dấu ấn lịch sử luôn bùng nổ những sự kiện bất ngờ. Một vùng đất đẫm máu và nước mắt, hằn lên vầng trán con người nếp nhăn của nỗi lo toan chạy dọc thế kỷ. Thơ nảy sinh từ đó.

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng dáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ , Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v.v... Đồng thời, Thơ mới là một hiện tượng thơ ca gây rất nhiều ý kiến khác nhau trong giới phê bình, nghiên cứu và độc giả theo từng thời kỳ lịch sử xã hội, cho đến bây giờ việc đánh giá vẫn còn đặt ra sôi nổi. Với phạm vi bài viết này, chúng tôi điểm lại những khái niệm về Thơ mới và sự đổi mới nghệ thuật thơ của các bậc thầy đi trước và tìm câu trả lời cho là hợp lý trong bao nhiêu ý kiến trái ngược nhau.

  • MẠNH LÊ Thơ ca hiện đại Việt Nam thế kỷ XX đã thu được những thành tựu to lớn đóng góp vào sự phát triển của lịch sử thơ ca dân tộc. Đặc biệt từ ngay sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời thay thế chế độ phong kiến thực dân hơn trăm năm đô hộ nước ta cùng với khí thế cách mạng kháng chiến cứu nước theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh tháng 12 năm 1946 đã thổi vào đời sống văn học một luồng sinh khí mới để từ đó thơ ca hiện đại Việt Nam mang một âm hưởng mới, một màu sắc mới.

  • NGUYỄN KHẮC THẠCHNếu gọi Huế Thơ với tư cách đối tượng thẩm mĩ thì chủ thể thẩm mĩ của nó trước hết và sau cùng vẫn là sự hoá sinh Thơ Huế. Đương nhiên, không hẳn chỉ có Thơ Huế mới là chủ thể thẩm mĩ của Huế Thơ và cũng đương nhiên không hẳn chỉ có Huế Thơ mới là đối tượng thẩm mĩ của Thơ Huế. Huế Thơ và Thơ Huế vẫn là hai phạm trù độc lập trong chừng mực nào đó và có khi cả hai đều trở thành đối tượng thẩm mĩ của một đối tượng khác.

  • ĐỖ LAI THÚYThanh sơn tự tiếu đầu tương hạc                                  Nguyễn KhuyếnNói đến Dương Khuê là nói đến hát nói. Và nói đến hát nói, thì Hồng Hồng, Tuyết Tuyết làm tôi thích hơn cả. Đấy không chỉ là một mẫu mực của thể loại, mà còn làm một không gian thẩm mỹ nhiều chiều đủ cho những phiêu lưu của cái đọc.

  • NGUYỄN NGỌC THIỆNHải Triều tên thật là Nguyễn Khoa Văn, sinh năm 1908 trong một gia đình Nho học, khoa bảng. Năm 20 tuổi, trở thành đảng viên trẻ của Tân Việt cách mạng Đảng, Nguyễn Khoa Văn bắt đầu cầm bút viết báo với bút danh Nam Xích Tử (Chàng trai đỏ). Điều này đã khiến trong lần gặp gỡ đầu tiên, người trai có "thân hình bé nhỏ và cử chỉ nhanh nhẹn theo kiểu chim chích" (1) ấy đã gây được cảm tình nồng hậu của Trần Huy Liệu- chủ nhiệm Nam Cường thư xã, người bạn cùng trang lứa tuy vừa mới quen biết, nhưng đã chung chí hướng tìm đường giải phóng cho dân tộc, tự do cho đất nước.

  • TÔ VĨNH HÀ Huế đang trở lạnh với "mưa vẫn mưa bay" giăng mờ như hư ảo những gương mặt người xuôi ngược trên con đường tôi đi. Tôi giật mình vì một tà áo trắng vừa trôi qua. Dáng đi êm nhẹ với cánh dù mỏng manh như hơi nghiêng xuống cùng nỗi cô đơn. Những nhọc nhằn của tuổi mơ chưa đến nỗi làm bờ vai trĩu mệt nhưng cũng đủ tạo nên một "giọt chiều trên lá(1), cam chịu và chờ đợi nỗi niềm nào đó hiu hắt như những hạt mưa...

  • NGUYỄN HỒNG DŨNG1. Một cuộc đời lặng lẽ và những truyện ngắn nổi danhO' Henry, tên thật là William Sydney Porter, được đánh giá là người viết truyện ngắn xuất sắc nhất của nước Mỹ những năm đầu thế kỷ XX. Ông sinh tại Greenboro, tiểu bang North Carolina vào năm 1862. Năm 15 tuổi (1877), ông thôi học và vào làm việc trong một hiệu thuốc tây. Vào tuổi hai mươi, ông bị đau nặng và sức khoẻ sa sút nên đã đến dưỡng sức ở một nông trại tại tiểu bang Texas. Ông đã sống ở đấy hai năm, đã làm quen với nhiều người và hiểu rất rõ tính cách miền Tây. Sau này, ông đã kể về họ rất sinh động trong tập truyện ngắn có tựa đề đầy xúc cảm Trái tim miền Tây.

  • MAI KHẮC ỨNGCó thể sau khi dẹp được loạn 12 sứ quân, Đinh Tiên Hoàng (968- 979) thống nhất lãnh thổ và lên ngôi hoàng đế, đã đặt được cơ sở ban đầu và xác định chủ quyền Đại Cồ Việt lên tận miền biên cương Tây Bắc vốn là địa bàn chịu ảnh hưởng Kiểu Công Hãn. Trên cơ sở 10 đạo thời Đinh nhà vua Lý Thái Tổ (1010- 1028) mới đổi thành 24 phủ, lộ. Nguyễn Trãi viết Dư địa chí (thế kỷ XV) vẫn giữ nguyên tên gọi đạo Lâm Tây. Tức vùng Tây- Bắc ngày nay.

  • TRẦN ANH VINHÂm vang của những sự kiện xẩy ra năm Ất Dậu (1885) không những vẫn còn đọng trong tâm trí người dân núi Ngự mà còn được ghi lại trong một số tác phẩm. Bài vè “Thất thủ Kinh đô” do cụ Mới đi kể rong hàng mấy chục năm ròng là một tác phẩm văn học dân gian, được nhiều người biết và ngưỡng mộ. Riêng Phan Bội Châu có viết hai bài:+ Kỷ niệm ngày 23 tháng Năm ở Huế (Thơ)+ Văn tế cô hồn ngày 23 tháng Năm ở Kinh thành Huế.

  • HOÀNG CÔNG KHANHCó một thực tế: số các nhà văn cổ kim đông tây viết tiểu thuyết lịch sử không nhiều. Ở Việt Nam càng ít. Theo ý riêng tôi nguyên nhân thì nhiều, nhưng cơ bản là nhà văn viết loại này phải đồng thời là nhà sử học, chí ít là có kiến thức sâu rộng về lịch sử. Cũng nhiều trường hợp người viết có đủ vốn liếng cả hai mặt ấy, nhưng hoặc ngại mất nhiều công sức để đọc hàng chục bộ chính sử, phải sưu tầm, dã ngoại, nghiên cứu, đối chiếu, chọn lọc hoặc đơn giản là chưa, thậm chí không quan tâm đến lịch sử.

  • TRƯƠNG ĐĂNG DUNG                 Tặng Đỗ Lai ThuýChủ nghĩa hiện đại là kết quả của những nỗ lực hiện đại hoá đời sống và tư duy xẩy ra từ những năm cuối của thế kỷ XIX, ở Châu Âu. Những thành tựu nổi bật của khoa học tự nhiên, của triết học, xã hội học và tâm lí học đã tác động đến cách nghĩ của con người hiện đại trước các vấn đề về tồn tại, đạo đức, tâm lí. Tư tưởng của Nietzsche, Husserl, hay Freud không chỉ ảnh hưởng đến tư duy hiện đại mà tiếp tục được nhắc đến nhiều ở thời hậu hiện đại.

  • ĐẶNG TIẾNTân Hình Thức là một trường phái thi ca hiện đại được phổ biến từ năm bảy năm nay, phát khởi do Tạp Chí Thơ, ấn hành tại Mỹ, chủ yếu từ số 18, xuân 2000 “chuyển đổi thế kỷ”, và được nhiều nhà văn, nhà thơ trong và ngoài nước hưởng ứng. Tên Tân Hình Thức dịch từ tiếng Anh New Formalism, một trường phái thơ Mỹ, thịnh hành những năm1980 - 1990.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP Một ngày kia, cát bụi vùng Hoan Diễn đã sinh tạo một “kẻ ham chơi”. Y cứ lãng đãng trong đời như một khách giang hồ mang trái tim nhạy cảm, một trái tim đầy nhạc với những đốm lửa buồn. Để rồi sau những cuộc say tràn cung mây, khi dòng cảm hứng chợt bùng lên từ những vùng u ẩn nằm sâu trong cõi nhớ, những giai âm ùa về như những luồng điện làm vỡ òa bí mật: có thương có nhớ có khóc có cười- có cái chớp mắt đã ngàn năm trôi. Đây là những câu thơ khép lại một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Trọng Tạo: Đồng dao cho người lớn(1).

  • NGUYỄN KHẮC PHÊTừ lâu, ở Huế, nhiều người đã biết tiếng ba công chúa, ba nữ sĩ (Tam Khanh) con vua Minh Mạng, em gái nhà thơ nổi tiếng Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, trong đó MAI AM là người được nhắc đến nhiều nhất. Mai Am nổi tiếng trước hết vì tài thơ và cùng vì cuộc đời riêng không được may mắn của bà, tuy bà là người sống thọ nhất trong “Tam Khanh”.

  • LÊ DỤC TÚCùng với nghệ thuật tiếp cận và phản ánh hiện thực, nghệ thuật miêu tả và khắc họa chân dung nhân vật, nghệ thuật châm biếm và sử dụng ngôn ngữ cũng là một trong những nét nghệ thuật đặc sắc ta thường gặp trong các phóng sự Việt Nam 1932 - 1945.

  • NGUYỄN VĂN DÂNTrong thế kỷ XX vừa qua, thế giới, đặc biệt là thế giới phương Tây, đã sản sinh ra biết bao phương pháp phục vụ cho nghiên cứu văn học, trong đó phương pháp cấu trúc là một trong những phương pháp được quan tâm nhiều nhất.

  • AN KHÁNHHai mươi tám năm kể từ ngày chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, đủ để một thế hệ trưởng thành, một dòng thơ định vị. Tháng 3 vừa qua, Hội Văn nghệ Hà Nội và nhóm nhà thơ - nhà văn - cựu binh Mỹ có cuộc giao lưu thú vị, nhằm tìm ra tiếng nói "tương đồng", sự thân ái giữa các thế hệ Mỹ - Việt thông qua những thông điệp của văn chương.