Cần sửa lại một thuật ngữ dịch sai trong lí luận và nghiên cứu văn học của ta

14:27 18/06/2010
TRẦN ĐÌNH SỬ“Cốt truyện” là thuật ngữ quen dùng trong nghiên cứu văn học Việt Nam, chỉ một đặc điểm của tác phẩm tự sự có từ lâu đời, được dịch từ tiếng Nga siuzhet, tiếng Anh plot, tiếng Pháp sujet.

GS Trần Đình Sử - Ảnh: antgct.cand.com.vn

Cội nguồn của thuật ngữ có thể ngược lên đến Aristote thời cổ đại Hi Lạp, chỉ hình thức tổ chức của truyện, bao gồm ba tính chất: tính liên tục trong thời gian, mối liên hệ nhân quả và mối liên hệ thống nhất của hình thức kết cấu... Thời cổ đại Hi Lạp trong sách Aristote chỉ mới có thuật ngữ fabula (fable) gồm các thành phần như biến cố, thắt nút, mở nút. Khái niệm truyện truyền thống do chỉ chú ý tới các yếu tố cốt lõi, chủ yếu: trình bày - thắt nút - phát triển - cao trào (đỉnh điểm) - mở nút, do đó mà cũng gọi là “cốt truyện”.

Khái niệm truyện (cốt truyện) truyền thống tuy có cơ sở khoa học, phù hợp với danh xưng “cốt truyện”, tức cái cốt, bộ xương, cái lõi của truyện, song có những thiếu sót nghiêm trọng. Một là chỉ quan tâm tới các yếu tố nhân quả, tất yếu, bỏ qua các yếu tố ngẫu nhiên vốn góp phần quan trọng làm nên cái hay, sức hấp dẫn của truyện. Những gì không thuộc cốt truyện, nhân vật như lời giới thiệu, miêu tả, bổ sung…thì gọi là yếu tố ngoài cốt truyện hoặc là phi cốt truyện; những lời bàn luận, biểu hiện cảm xúc trữ tình của người kể thì gọi là “trữ tình ngoại đề”. Hai là bỏ qua lời kể, một yếu tố cực kì quan trọng làm nên bản chất của tự sự. Ba là chưa thấy tính chất nghệ thuật của việc kể chuyện thể hiện trong sự đa dạng, biến hoá về kết cấu, thoát khỏi trình tự của cốt truyện nêu trên. Bốn là chưa thấy sự khác biệt giữa truyện nhân quả và truyện nghệ thuật. Các khiếm khuyết ấy làm cho khái niệm “cốt truyện” không vận dụng được vào tiểu thuyết, một thể loại tự sự hùng vĩ, phong phú, rất quan trọng của thời hiện đại. Chính vì thế mà các nhà lí luận sau này, bắt đầu từ các nhà hình thức Nga tìm cách đổi mới khái niệm, khắc phục những khiếm khuyết ấy.

Từ đầu thế kỉ XX các nhà hình thức Nga và nhiều nhà lí luận khác đi tìm cách hiểu mới về tổ chức của truyện kể (?, chuyển tự là siuzhet) và họ đề ra một số quan niệm mới khiến chúng ta không thể còn dịch là “cốt truyện” được nữa.

1. V. Shklovski đã cải tạo nội dung khái niệm “truyện”, ông đối lập chất liệu và hình thức, từ đó mà phân biệt “truyện gốc” (fabula,?) như là chất liệu để kể chuyện, còn “truyện” hay “truyện kể” (siuzhet) là hình thức kể chuyện. Trong luận văn Mối liên hệ giữa thủ pháp cấu tạo truyện kể với thủ pháp của phong cách ông cho rằng “fabula”, dịch là cố sự, truyện gốc hay tích truyện chỉ là chất liệu để làm nên truyện kể. Như thế truyện kể Evgêni Onegin không phải là mối tình của nhân vật Evgeni với Tatiana, mà là sự gia công về mặt kể chuyện đối với mối tình đó bằng cách đưa vào trật tự kể với nhiều đoạn lời xen bình luận hay trữ tình. Quan niệm xem truyện gốc chỉ là chất liệu, còn hình thức mới là cái biến chất liệu thành truyện có ý nghĩa nghệ thuật dựa trên cách đối lập chất liệu/ hình thức của chính Aristote trong Siêu hình học: “Tôi gọi bản chất tồn tại của mỗi sự vật là hình thức, là bản chất thứ nhất của nó.” Công thức của Aristote là “Bản chất = vật chất (chất liệu) + hình thức”. Khái niệm “hình thức này ở Platon được gọi là “ideia”, tức là tư tưởng, do đó hình thức và tư tưởng tương thông với nhau, hình thức là tư tưởng. Quan điểm đó được các nhà lí luận hình thức khác tán thành. Ở Anh, M. Forster phân biệt “cốt truyện” (story) và truyện (plot) như sau: “Nhà vua chết rồi sau đó hoàng hậu cũng chết” là cốt truyện, cố sự, chỉ có tính liện tục, còn “nhà vua chết, hoàng hậu đau buồn rồi chết” là truyện. Chuỗi sự kiện thứ nhất chỉ mới có thứ tự sau trước mà chưa có nhân quả, chưa có tính thống nhất, cho nên chưa phải là truyện. Việc đổi mới khái niệm siuzhet, xem nó là hình thức nhằm chỉ ra phương thức kiến tạo tư tưởng trong việc kể chuyện, là một bước tiến quan trọng.

2. Tiếp theo, trong sách Lí luận văn học. Thi pháp học, (L. Nxb. Nhà nước, 1925, tr. 137) B. V. Tomashevski phân biệt “truyện gốc” (fabula) với “truyện kể” (siuzhet) như sau: Fabula là tổng hoà mọi sự kiện có quan hệ với nhau được thông báo trong tác phẩm […] (tương tự như chất liệu ở Shclovsski), siuzhet đối lập với fabula ở chỗ, cùng những sự kiện ấy, nhưng được trình bày trong trật tự như chúng được thông báo trong tác phẩm, trong mối liên hệ mà sự thông báo về chúng được đưa ra trong tác phẩm”. Như vậy yếu tố bắt buộc của siuzhet, theo Tomashevski là mối liên hệ, trật tự trình bày, tức là kết cấu của sự kiện trong trần thuật. Tách rời sự kiện với trật tự và kết cấu trình bày thì không còn siuzhet nữa. Trong chương “Chủ đề” của giáo trình nói trên Tomashevski còn chỉ ra đơn vị nhỏ nhất của chủ đề, tức là cái thống nhất toàn tác phẩm, là “môtip”, là đơn vị không thể chia nhỏ hơn được nữa. Theo đó, mỗi câu có một môtip, chẳng hạn “Trời đã tối”, “anh hùng đã hi sinh”, “nhận được thư rồi”, “Rasconnicop giết chết mụ già”… Xét theo đơn vị môtip, “fabula là nằm ở tổng hoà nhiều môtip trong quan hệ nhân quả - thời gian có tính lôgich, còn siuzhet nằm ở tổng hoà các môtip trong mối liên hệ và trật tự mà tác phẩm sắp xếp”. Như vậy, “truyện kể” là một cấp độ của văn bản, nhưng chưa nói đến tính chất kéo dài của truyện kể tương đồng với văn bản.

3. L. Timofeev trong các giáo trình và chuyên luận của mình đã xem siuzhet là một yếu tố của kết cấu, nằm trong phạm trù kết cấu. Timôfeev đồng thời xem siuzhet là một yếu tố của nội dung cụ thể trực tiếp nhằm biểu hiện nội dung xung đột xã hội của tác phẩm. Timôfeev hiểu khái niệm siuzhet hoàn toàn theo truyền thống, vì thế ông phản đối phân biệt siuzhet và fabula của các nhà hình thức Nga. Ông chỉ thấy sự phụ thuộc của siuzhet vào hiện thực và chức năng thể hiện tính cách nhân vật mà không thấy vai trò chủ thể của nhà văn trong kết cấu truyện kể, do đó quan điểm của ông tỏ ra tự mâu thuẫn khi cũng xem siuzhet là một bộ phận của kết cấu..

4. G. Pospelov chủ trương hình thức văn học gồm ba yếu tố: ngôn từ, chi tiết tạo hình khách thể, kết cấu. Theo ông, “vấn đề siuzhet là vấn đề tạo hình, đó là thực tại nghệ thuật, là các sự kiện được miêu tả. Nếu hiểu đó là tiến trình sự kiện được miêu tả trong tác phẩm, thì nó hoàn toàn thuộc về hình thức tạo hình khách thể, thuộc bình diện hình thức tác phẩm.” Ông hiểu hai khái niệm siuzhet và fabula hoàn toàn trái ngược với V. Shklovski, Tomashevski, nhưng nội hàm thì thống nhất, vì ông vẫn xem siuzhet là hình thức. Ông viết: “fabula là tiến trình trần thuật về sự phát triển các sự kiện, trong đó có thể bao gồm những miêu tả khác nhau, những ý nghĩ của nhân vật, hay là của tác giả, những câu chuyện kể xen về các sự kiện nằm ngoài tiến trình chủ yếu của truyện, và thường phá vỡ trật tự thời gian của tiến trình sự kiện chủ yếu bằng cách cài vào những tình tiết và dự báo hay hãm chậm sự kiện.”

5. Đến năm 1964, V. Koginov trong bộ sách nổi tiếng của Viện văn học thế giới mang tên Gorki “Lí luận văn học - những vấn đề cơ bản dưới cái nhìn lịch sử” xác định rằng “Truyện kể” (siuzhet) là một lớp của tác phẩm, một trong những lớp vỏ (tức hình thức - TĐS) của nó”. “Truyện kể xuất hiện như một toàn bộ trong tác phẩm, nhưng chỉ trên một mặt cắt nhất định của tác phẩm, bên cạnh các mặt cắt khác, như ngôn từ, tính cách và hoàn cảnh, nhịp điệu đều là những cái toàn bộ có quan hệ với nhau trong tác phẩm. “Truyện kể” - ấy là một liên tục sống động của tất cả những môtiv (vận động, hành động) được mô tả trong tác phẩm”. Như vậy Koginov giống Tomashevski xem truyện là một lớp của tác phẩm tự sự, bên ngoài ngôn từ. Về đơn vị nhỏ nhất của truyện kể, Koginov dựa vào ý của Lessing viết trong Laokoon: “Thơ ca miêu tả sự vận động của sự vật gián tiếp qua sự vận động của thân thể. Một loạt vận động hướng về một mục đích thống nhất thì gọi là hành động”. Koginov viết: “Tác phẩm văn học là một hành động toàn vẹn, hành động xuyên suốt, trong đó mỗi câu đưa ra trước mặt ta một vận động mới. Miêu tả chân dung trong văn học thực ra không phải là miêu tả khuôn mặt, mà là miêu tả các vận động của khuôn mặt, như chân dung của Pliushkin ở Gôgôn, chân dung Bazarov ở Turgeniev, chân dung Giave của Hugo, chân dung Votơranh của Balzac. Cơ sở của văn học là miêu tả trực tiếp các vận động bên ngoài và bên trong khác nhau của con người, sự vật như hành vi, cử chỉ, ánh mắt, cảm xúc, cơn giông...”. Tác giả dẫn chứng các vận động như: con đường chạy ra bờ sông, biệt thự đứng bên đường, cây liễu rũ bên hồ, gió lay động cành liễu... Tác phẩm văn học đặt trước mắt ta nhiều chuỗi liên tục của các vận động bên trong và bên ngoài của con người và sự vật, những chuỗi cử chỉ, hành vi của con người dài ngắn hoặc phức tạp khác nhau. Chuỗi liên tục thống nhất có nhiều mối liên hệ nội tại đó làm nên “truyện kể” (siuzhet) của tác phẩm”. Nhưng siuzhet (“truyện kể”) không đồng nhất với tác phẩm, nó chỉ là một lớp của tác phẩm, một trong các lớp vỏ của nó. Lớp ngoài cùng là ngôn từ, lớp thứ hai là siuzhet, lớp thứ ba là tính cách, hoàn cảnh. Cách chia lớp của V. Koginov ngày nay xem ra còn có thể bàn thêm, bởi ông đã tách lớp hành động khỏi lớp ngôn từ, bởi hồi đó chưa có quan niệm về trần thuật với hệ thống điểm nhìn như ngày nay.

Từ các cách hiểu về fabula và siuzhet tuy khác nhau nhưng vẫn có thống nhất như trên, ta thấy lí luận của phương Tây đã thay đổi căn bản, trong khi đó người dịch sang tiếng Việt lại sử dụng thuật ngữ cốt truyện rất cũ để dịch, cho nên tỏ ra lúng túng. Nhiều người dịch siuzhet khi là “cốt truyện”, khi dịch fabula thì dùng từ “sườn truyện”. Thực ra “cốt truyện” hay “sườn truyện” thì cũng là một mà thôi, bởi “sườn” và “cốt” có khác gì nhau đâu. Có người dịch siuzhet là “chủ đề” thì lại đi quá xa tính chất của “siuzhet”. Sự lúng túng ấy là do không hiểu đúng nội dung khái niệm chứa trong thuật ngữ siuzhet mà ra. Theo tôi, việc sử dụng khái niệm “cốt truyện” để dịch thuật ngữ siuzhet trong tiếng Nga chỉ đúng trong ý nghĩa cổ điển, để chỉ tiến trình chủ yếu với các thành phần thắt nút, phát triển, cao trào, mở nút như trên đã nói. Với nội dung mới, dịch siuzhet thành “cốt truyện” là không phù hợp, gây hiểu lầm, tưởng rằng siuzhet chỉ là cái lõi truyện, là tiến trình các sự kiện chủ yếu. Có thể nói giới nghiên cứu văn học Việt Nam gần nửa thế kỉ qua đã hiểu lầm thuật ngữ tiếng Nga, chưa tiếp cận được với khái niệm mới của lí luận, phần lớn vẫn hiểu khái niệm cốt truyện theo tinh thần cổ điển.

Trong thuật ngữ lí luận văn học bằng tiếng Việt, không biết ai là người đầu tiên đặt ra từ “cốt truyện” và ý nghĩa của nó ban đầu ra sao, nhưng trong các sách nghiên cứu văn học trước năm 1945, như Việt Nam văn học sử yếu của Dương Quảng Hàm thì khi đề cập tới thể truyện tác giả đã sử dụng thuật ngữ “tình tiết” theo người Trung Quốc để chỉ hệ thống sự kiện, diễn biến gắn liền với nhân vật, “cốt truyện” để chỉ một nội dung tương tự như chủ đề. Khái niệm cốt truyện đây cũng mang nội dung cổ điển. Trong sách lí luận văn học Trung Quốc, khi gặp thuật ngữ siuzhet thì họ dịch thành “cố sự tình tiết” nghĩa là tình tiết truyện, khi gặp thuật ngữ fabula thì họ dịch thành “cố sự cảnh khái”, nghĩa là cốt truyện. Những cách dịch đó chỉ có tính chất lâm thời, chưa có giá trị thuật ngữ.

Trong cuốn giáo trình lí luận văn học đầu tiên của nước ta sau năm 1954, cuốn “Mấy vấn đề nguyên lí văn học” tập I của Nguyễn Lương Ngọc (1962), tác giả theo cách dịch của người Trung Hoa, sử dụng thuật ngữ “tình tiết”, xem đó là một bộ phận quan trọng của kết cấu. Tình tiết được hiểu là “sự liên kết một số sự kiện có liên quan với nhau; sao cho sự kiện phát triển được, bằng tư duy hình tượng, hành động, tâm lí, tính cách một số nhân vật, xoay quanh một nhân vật chính, chủ yếu hoặc chủ giác (nhân vật trung tâm)” (tr. 54). Tác giả đề nghị phân biệt “tình tiết” với “cốt truyện”: “Nói đến cốt truyện, chủ yếu là nói đến sự phát triển sự kiện hành động”, nghĩa là chỉ thuần tuý các sự kiện chủ yếu có tính nhân quả, tạo nên hành động, không bao gồm tâm lí, tính cách nhân vật. Như vậy, có thể hiểu, theo Nguyễn Lương Ngọc, cốt truyện chỉ là các sự kiện hành động, còn tình tiết, với tư cách một bộ phận quan trọng của kết cấu, bao gồm những sự liên kết một số sự kiện xoay quanh một nhân vật thì phải bao gồm cả tâm lí, tính cách, chi tiết... Tâm lí, tính cách... cũng chỉ là nội dung, như thế trong khái niệm “tính tiết” chỉ khác cốt truyện ở tính đầy đủ, cụ thể, chi tiết hơn, so với cốt truyện chỉ là cái cốt, mà chưa bao gồm cách thuật, kể, trình tự, góc độ kể... Như thế khái niệm “tình tiết” ở đây vẫn chưa phản ánh được nội hàm khoa học mà thuật ngữ Siuzhet biểu đạt. Theo chúng tôi, đó là cách hiểu chưa phù hợp với thông lệ của nhiều sách lí luận văn học nước ngoài, trước hết là sánh lí luận văn học Liên Xô mà tác giả tiếp nhận qua bản tiếng Pháp. Chẳng hạn câu nói nổi tiếng của Gorki về siuzhet: “Sự liên hệ, sự mâu thuẫn, sự cảm thông, không cảm thông, và những quan hệ khác nữa giữa các nhân vật - sự trưởng thành và cấu thành của những loại tính cách và điển hình này hay khác” (Bài nói chuyện với các nhà văn trẻ) (tr. 54 - 55) về thực chất cũng chỉ là cốt truyện chi tiết trong ý nghĩa cổ điển mà thôi, chưa phải là nội dung siuzhet như các nhà hình thức chủ nghĩa quan niệm. Chúng ta có thể so sánh với nội dung đoạn nói về siuzhet trong giáo trình của Timopheep được dịch trong “Nguyên lí lí luận văn học”, tập I, nxb Văn hoá, Hà Nội, 1962.

Thuật ngữ “tình tiết” ở đây được dùng để dịch chữ siuzhet trong tiếng Nga mà sau này, từ bản dịch “Nguyên lí lí luận văn học” của L. Timopheep đến bản dịch giáo trình Lí luận văn học của Gulaiep đều được dịch là “cốt truyện” nói chung đều là một sự ngộ nhận. Từ “tình tiết” là mượn cách dịch của Trung Quốc. Trong tiếng Việt, ý nghĩa hai chữ tình tiết có nội hàm hẹp hơn, thường để chỉ một hay những “trường đoạn trong truyện, mà trường đoạn ứng với “episod”, do đó đem dịch từ siuzhet cũng vẫn chưa thích hợp. Có lẽ vì thế mà sau này đến các dịch giả sau thì siuzhet được dịch hẳn thành “cốt truyện”. Nhưng theo tôi, hai tiếng “cốt truyện” cũng không thích hợp. Bởi vì trong tiếng Việt hai chữ cốt truyện xét về nghĩa đen, có nghĩa là cái cốt lõi của truyện, tức là các sự kiện chủ yếu của truyện mà người ta có thể tóm tắt, vay mượn. Vì thế, cho dù khái niệm siuzhet được định nghĩa là “một hệ thống cụ thể những biến cố ở trong tác phẩm, hệ thống đó bộc lộ các tính cách trong những mối quan hệ qua lại và tác động qua lại của chúng” thì người ta vẫn thiên về hiểu đó là hệ thống các sự kiện, chi tiết chủ yếu làm nên truyện và không gắn bó gì với kết cấu cả.

Nhận thấy cách dịch “cốt truyện” truyền thống như vậy không phù hợp, khi dịch giáo trình do Pospelov chủ biên năm 1984, chúng tôi đã có chú thích như sau: “Thuật ngữ cốt truyện do yếu tố “cốt” nên thường được hiểu như là “cái lõi”, “bộ xương”, “cái sườn”, “cơ sở” của truyện, chứ chưa phải là truyện. Cách hiểu đó được củng cố thêm bởi tính chất có thể tóm tắt, có thể được vay mượn, di chuyển của một số cốt truyện từ tác phẩm này sang tác phẩm khác, bởi các thành phần của truyện như thắt nút, phát triển, cao trào, mở nút... Cách hiểu đó thực ra chỉ mới đề cập tới một số khía cạnh chứ chưa phải là toàn bộ “hệ thống biến cố tạo nên sự vận động của nội dung cuộc sống trong tác phẩm như là một bình diện quan trọng của hình thức nghệ thuật, hay nói cách khác là lớp hình thức biến cố của tác phẩm. Chính để làm sáng tỏ tính đặc trưng nghệ thuật của lớp hình thức này mà người ta phân biệt tiến trình sự kiện tự nhiên (fabula) và tiến trình kể chuyện (siuzhet), và cả hai tiến trình này cũng đều không phải là “cốt truyện”, vì người ta không phân biệt một bên chỉ là cốt lõi, còn bên kia thì toàn bộ. Trong quan niệm của các nhà lí luận Nga họ chỉ phân biệt một bên là “tiến trình tự nhiên” còn bên kia là “tiến trình kể chuyện nghệ thuật”, có sự can thiệp, sắp xếp lại theo ý đồ của nhà văn. Khi nói về siuzhet tất cả các nhà lí luận đều nhắc đến tính toàn vẹn, tính chỉnh thể mà bất cứ cái “cốt” nào cũng không có được. Chẳng hạn, siuzhet “là mối liên hệ chỉnh thể của các hành vi, sự kiện, số phận và phản ánh các quy luật được nghệ sĩ nhận thức cũng như quan điểm của anh ta đối với chúng”, là “hành động của tác phẩm trong tính toàn vẹn, là chuỗi các vận động được miêu tả một cách thực tế”, là “tính liên tục thống nhất, có nhiều liên hệ nội tại đa dạng.” của “các vận động bên trong và bên ngoài con người và sự vật”. Như vậy, dịch thuật ngữ siuzhet thành thuật ngữ “cốt truyện” rõ ràng là không thích hợp. Tuy vậy để tránh gây xáo trộn chúng tôi vẫn sử dụng thuật ngữ ấy.”

Đó là tình hình năm 1985. Sau này trong giáo trình Dẫn luận thi pháp học (1998), tôi vẫn dùng thuật ngữ “cốt truyện” nhưng phân biệt “cốt truyện nhân quả” và “cốt truyện nghệ thuật”. Đến giáo trình Lí luận văn học năm 2004 (dùng cho hệ cao đẳng) và đặc biệt giáo trình Lí luận văn học năm 2008 (dùng cho hệ cử nhân), khi mà lí thuyết tự sự học đã được sử dụng phổ biến ở nước ta, tôi nghĩ cần phải dứt khoát dịch thuật ngữ “siuzhét” là “truyện kể” với tính chất toàn vẹn, hoàn chỉnh, liên tục của nó, gắn với văn bản ngôn từ.

Với quan niệm đó chúng ta cần phân biệt các thuật ngữ về tự sự như sau:

1. Sự kiện là thuật ngữ chỉ một sự việc, một thay đổi, biến hoá có tác dụng bộc lộ một tính cách, phẩm chất, ý nghĩa nào đó của nhân vật hay nhân sinh (ví dụ, gặp người đẹp, phản bội, phạm tội, gặp tai hoạ, chiến tranh, bệnh dịch...).

2. Tình tiết là chuỗi một số chi tiết, sự kiện bộc lộ một ý nghĩa nào đó về nhân vật, nhân sinh. Tình tiết chỉ là một đơn vị của truyện, lớn hơn sự kiện, cái mà người ta vẫn gọi là “trường đoạn”.

3. Cốt truyện là tổng hoà các sự kiện, biến cố có tính nhân quả làm nên cơ sở của truyện, nó là chất liệu đời sống để nhà văn dựng nên truyện. Cốt truyện này có thể tóm tắt, có thể vay mượn, chuyển di từ tác phẩm này sang tác phẩm khác, bản thân nó chưa phải là sản phẩm nghệ thuật, chưa phải là thành phần của tác phẩm tự sự. Đây là cái mà tiếng Nga gọi là “fabula”. Chuỗi sự kiện (hành động) sắp xếp theo trật tự: trình bày - thắt nút - phát triển - cao trào - mở nút truyền thống, có từ thời cổ đại, thực chất đã là một trật tự nghệ thuật, nhưng do là chỉ có cái sườn, cái lõi, không gắn với thứ tự kể và lời kể, cho nên vẫn gọi là “cốt truyện”.

4. Truyện hay truyện kể là chỉnh thể các sự kiện lớn nhỏ được sắp xếp, kể theo dòng ngôn từ nhằm bộc lộ ý nghĩa nghệ thuật mà nhà văn hướng đến. Truyện có không gian thời gian độc lập với cốt truyện, có hình thức kết cấu và hình thức ngôn từ chặt chẽ. Nó là sự thống nhất giữa hệ thống sự kiện, biến cố, chi tiết với trần thuật làm nên thực thể của tự sự. Truyện kể là thành phần không thể thiếu của tác phẩm tự sự.

5. Truyện kể là hình thức cơ bản nhất của tự sự, vì thế, trong tiếng Việt từ thời xa xưa người ta gọi tác phẩm tự sự là truyện: truyện cổ tích, truyện cười, truyện ngụ ngôn, truyện nôm, truyện thơ, hoặc gần đây hơn ta có truyện anh hùng chiến sĩ thi đua, truyện tình, truyện ma, truyện kinh dị, truyện tinh thám (truyện + đề tài)... Khi hình thành hệ thống thể loại văn học mới người ta vẫn sử dụng yếu tố cũ để đặt tên thể loại văn học nói như truyện ngắn, truyện vừa, truyện dài hoặc tiểu thuyết. Tuy nhiên khái niệm truyện hình thành trong truyền thống văn học dân gian, trong đó hình thức truyền miệng đã làm cho yếu tố lời kể trở nên không xác định cho nên có người vẫn hiểu nó chỉ là hệ thống hành động nằm ngoài ngôn từ. Trong nhãn quan hiện đại cần hiểu truyện trong sự thống nhất với hình thức ngôn từ và có thể gọi là truyện kể. Truyện là tính chất của tự sự. Đã là tự sự thì có tính truyện và cũng có cốt truyện như là chất liệu đời sống làm cơ sở để dựng nên truyện. Theo cách hiểu này thì “cốt truyện” không còn là một thành phần của tự sự nữa.

6. Trong nghiên cứu văn học vẫn thường có quan niệm về loại truyện “không có cốt truyện”, tức là truyện không thể kể lại được, không có đỉnh điểm, không có mở nút có kết cục cụ thể như một số truyện của Shêkhôv, Thạch Lam... Khái niệm “cốt truyện” đây, nếu hiểu là “truyện”, “truyện kể”, tức “siuzhet” thì là vô nghĩa. Nhà nghiên cứu Nga Chudakov trong chuyên luận “Thi pháp Shêkhôv” cho rằng hiểu như thế thực chất là nói đến một loại truyện, trong đó truyện (siuzhet) là chuỗi nhân quả bắt buộc dẫn dến một kết cục, chẳng hạn yêu nhau thì hoặc là cưới hoặc là bỏ nhau, hoặc là có một người phản bội hay là một người tự tử..., không có kết cục thì coi như không có “truyện”. Còn kiểu truyện như Shêkhôv và Thạch Lam lại là một loại hình truyện khác. Như thế cụm từ “truyện không có cốt truyện”, nói cho chặt chẽ là một cách nói không khoa học.

Tóm lại, tôi đề nghị phân biệt khái niệm cốt truyện cổ điển với khái niệm truyện hay truyện kể hiện đại. Như thế, cốt tuyện trong ý nghĩa hiện đại không phải là thành phần của tác phẩm tự sự. Đối với thuật ngữ siuzhet trong tiếng Nga, tôi đề nghị từ nay không dịch thành “cốt truyện”, mà dịch thành truyện hay truyện kể, bởi dịch thành cốt truyện làm cho người đọc hiểu sai tư tưởng khoa học của nguyên tác. Đối với các dịch phẩm đã công bố thì nên hiểu là truyện hay truyện kể. Còn khi sử dụng thuật ngữ cốt truyện thì chỉ nên hiểu nó như chất liệu đời sống hay hiểu theo nghĩa cổ điển như chuỗi hành động thắt nút, mở nút, có một kết cục cụ thể mà thôi.

Hà Nội, 5 - 12 - 2009
T.Đ.S
(255/5-10)





Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LÊ DỤC TÚCùng với nghệ thuật tiếp cận và phản ánh hiện thực, nghệ thuật miêu tả và khắc họa chân dung nhân vật, nghệ thuật châm biếm và sử dụng ngôn ngữ cũng là một trong những nét nghệ thuật đặc sắc ta thường gặp trong các phóng sự Việt Nam 1932 - 1945.

  • NGUYỄN VĂN DÂNTrong thế kỷ XX vừa qua, thế giới, đặc biệt là thế giới phương Tây, đã sản sinh ra biết bao phương pháp phục vụ cho nghiên cứu văn học, trong đó phương pháp cấu trúc là một trong những phương pháp được quan tâm nhiều nhất.

  • AN KHÁNHHai mươi tám năm kể từ ngày chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, đủ để một thế hệ trưởng thành, một dòng thơ định vị. Tháng 3 vừa qua, Hội Văn nghệ Hà Nội và nhóm nhà thơ - nhà văn - cựu binh Mỹ có cuộc giao lưu thú vị, nhằm tìm ra tiếng nói "tương đồng", sự thân ái giữa các thế hệ Mỹ - Việt thông qua những thông điệp của văn chương.

  • TRẦN ĐÌNH SỬ Bạn đọc Việt Nam vốn không xa lạ với phê bình phân tâm học hơn nửa thế kỷ nay, bởi nó đã bắt đầu được giới thiệu vào nước ta từ những năm ba mươi, bốn mươi thế kỷ trước. Nhưng đáng tiếc nó đã bị kỳ thị rất nặng nề từ nhiều phía. Giống như nhân loại có thời phản ứng với Darwin vì không chấp nhận lý thuyết xem con người là một loài cao quý lại có thể tiến hóa từ một loài tầm thường như loài khỉ, người ta cũng không thể chấp nhận lý thuyết phân tâm học xem con người - một sinh vật có lý trí cao quý lại có thể bị sai khiến bởi bản năng tầm thường như các loài vật hạ đẳng!

  • PHẠM ĐÌNH ÂN(Nhân kỷ niệm lần thứ 20 ngày mất của Thế Lữ 3-6-1989 – 3-6-2009)Nói đến Thế Lữ, trước tiên là nói đến một nhà thơ tài danh, người góp phần lớn mở đầu phong trào Thơ Mới (1932-1945), cũng là nhà thơ tiêu biểu nhất của Thơ Mới buổi đầu. Ông còn là cây bút văn xuôi nghệ thuật tài hoa, là nhà báo, dịch giả và nổi bật là nhà hoạt động sân khấu xuất sắc, cụ thể là đưa nghệ thuật biểu diễn kịch nói nước nhà trở thành chuyên nghiệp theo hướng hiện đại hóa.

  • THÁI DOÃN HIỂUPhàm trần chưa rõ vàng thauChân tâm chẳng biết ở đâu mà tìm.                                VẠN HẠNH Thiền sư

  • HỒ THẾ HÀ  Thi ca là một loại hình nghệ thuật ngôn từ đặc biệt. Nó là điển hình của cảm xúc và tâm trạng được chứa đựng bởi một hình thức - “hình thức mang tính quan niệm” cũng rất đặc biệt. Sự “quái đản” trong sử dụng ngôn từ; sự chuyển nghĩa, tạo sinh nghĩa trong việc sử dụng các biện pháp tu từ; sự trừu tượng hoá, khái quát hoá các trạng thái tình cảm, hiện thực và khát vọng sống của con người; sự hữu hình hoá hoặc vô hình hoá các cảm xúc, đối tượng; sự âm thanh hoá theo quy luật của khoa phát âm thực nghiệm học (phonétique  expérimentale)...đã làm cho thi ca có sức quyến rũ bội phần (multiple) so với các thể loại nghệ thuật ngôn từ khác.

  • LÊ XUÂN LÍTHỏi: Mã Giám Sinh sau khi mua được Kiều, Mã phải đưa Kiều đi ròng rã một tháng tròn mới đến Lâm Tri, nơi Tú Bà đang chờ đợi. Trên đường, Mã đâm thèm muốn chuyện “nước trước bẻ hoa”. Hắn nghĩ ra đủ mưu mẹo, lí lẽ và hắn đâm liều, Nguyễn Du viết:              Đào tiên đã bén tay phàm              Thì vin cành quít, cho cam sự đờiĐào tiên ở đây là quả cây đào. Sao câu dưới lại vin cành quít? Nguyễn Du có lẩm cẩm không?

  • CHU ĐÌNH KIÊN1. Có những tác phẩm người đọc phải thực sự “vật lộn” trên từng trang giấy, mới có thể hiểu được nhà văn muốn nói điều gì. Đó là hiện tượng “Những kẻ thiện tâm” (Les Bienveillantes) của Jonathan Littell. Một “cas” được xem là quá khó đọc. Tác phẩm đã đạt hai giải thưởng danh giá của nước Pháp là: giải Goncourt và giải thưởng của Viện hàn lâm Pháp.

  • PHONG LÊSinh năm 1893, Ngô Tất Tố rõ ràng là bậc tiền bối của số rất lớn, nếu không nói là tất cả những người làm nên diện mạo hiện đại của văn học Việt Nam thời 1932-1945. Tất cả - gồm những gương mặt tiêu biểu trong phong trào Thơ mới, Tự Lực văn đoàn và trào lưu hiện thực đều ra đời sau ông từ 10 đến 20 năm, thậm chí ngót 30 năm.

  • HẢI TRUNGHiện tượng ngôn ngữ lai tạp hay gọi nôm na là tiếng bồi, tiếng lơ lớ (Pidgins và Creoles) được ngành ngôn ngữ học đề cập đến với những đặc trưng gắn liền với xã hội. Nguồn gốc ra đời của loại hình ngôn ngữ này có nhiều nét khác biệt so với ngôn ngữ nói chung. Đây không chỉ là một hiện tượng cá thể của một cộng đồng ngôn ngữ nào, mà nó có thể phát sinh gắn liền với những diễn biến, những thay đổi, sự phát triển của lịch sử, xã hội của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia khác nhau.

  • BÙI NGỌC TẤN... Đã bao nhiêu cuộc hội thảo, bao nhiêu cuộc tổng kết, bao nhiêu cuộc thi cùng với bao nhiêu giải thưởng, văn chương của chúng ta, đặc biệt là tiểu thuyết vẫn chẳng tiến lên. Rất nhiều tiền của bỏ ra, rất nhiều trí tuệ công sức đã được đầu tư để rồi không đạt được điều mong muốn. Không có được những sáng tác hay, những tác phẩm chịu được thử thách của thời gian. Sự thất thu này đều đã được tiêu liệu.

  • NGUYỄN HUỆ CHICao Bá Quát là một tài thơ trác việt ở nửa đầu thế kỷ XIX. Thơ ông có những cách tân nghệ thuật táo bạo, không còn là loại thơ “kỷ sự” của thế kỷ XVIII mà đã chuyển sang một giọng điệu mới, kết hợp tự sự với độc thoại, cho nên lời thơ hàm súc, đa nghĩa, và mạch thơ hướng tới những đề tài có ý nghĩa xã hội sâu rộng.

  • NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã nhiều sử liệu viết về cuộc xử án vua Duy Tân và các lãnh tụ khởi xướng cuộc khởi nghĩa bất thành tháng 5-1916, mà trong đó hai chí sĩ Thái Phiên - Trần Cao Vân là hai vị đứng đầu. Tất cả các sử liệu đều cho rằng, việc hành hình đối với Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu diễn ra vào sáng ngày 17-5-1916. Ngay cả trong họ tộc hai nhà chí sĩ, việc ghi nhớ để cúng kỵ, hoặc tổ chức kỷ niệm cũng được tính theo ngày như thế.

  • PHONG LÊBây giờ, sau 60 năm - với bao là biến động, phát triển theo gia tốc lớn của lịch sử trong thế kỷ XX - từ một nước còn bị nô lệ, rên xiết dưới hai tầng xiềng xích Pháp-Nhật đã vùng dậy làm một cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại, rồi tiến hành hai cuộc kháng chiến trong suốt 30 năm, đi tới thống nhất và phát triển đất nước theo định hướng mới của chủ nghĩa xã hội, và đang triển khai một cuộc hội nhập lớn với nhân loại; - bây giờ, sau bao biến thiên ấy mà nhìn lại Đề cương về văn hoá Việt Nam năm 1943(1), quả không khó khăn, thậm chí là dễ thấy những mặt bất cập của Đề cương... trong nhìn nhận và đánh giá lịch sử dân tộc và văn hoá dân tộc, từ quá khứ đến hiện tại (ở thời điểm 1943); và nhìn rộng ra thế giới, trong cục diện sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại; và gắn với nó, văn hoá, văn chương - học thuật cũng đang chuyển sang giai đoạn Hiện đại và Hậu hiện đại...

  • TƯƠNG LAITrung thực là phẩm chất hàng đầu của một người dám tự nhận mình là nhà khoa học. Mà thật ra, đâu chỉ nhà khoa học mới cần đến phẩm chất ấy, nhà chính trị, nhà kinh tế, nhà văn hoá... và bất cứ là "nhà" gì đi chăng nữa, trước hết phải là một con người biết tự trọng để không làm những việc khuất tất, không nói dối để cho mình phải hổ thẹn với chính mình. Đấy là trường hợp được vận dụng cho những người chưa bị đứt "dây thần kinh xấu hổ", chứ khi đã đứt mất cái đó rồi, thì sự cắn rứt lương tâm cũng không còn, lấy đâu ra sự tự phản tỉnh để mà còn biết xấu hổ. Mà trò đời, "đã trót thì phải trét", đã nói dối thì rồi cứ phải nói dối quanh, vì "dại rồi còn biết khôn làm sao đây".

  • MÃ GIANG LÂNVăn học tồn tại được nhiều khi phụ thuộc vào độc giả. Độc giả tiếp nhận tác phẩm như thế nào? Tiếp nhận và truyền đạt cho người khác. Có khi tiếp nhận rồi nhưng lại rất khó truyền đạt. Trường hợp này thường diễn ra với tác phẩm thơ. Thực ra tiếp nhận là một quá trình. Mỗi lần đọc là một lần tiếp nhận, phát hiện.

  • HÀ VĂN LƯỠNGTrong dòng chảy của văn học Nga thế kỷ XX, bộ phận văn học Nga ở hải ngoại chiếm một vị trí nhất định, tạo nên sự thống nhất, đa dạng của thế kỷ văn học này (bao gồm các mảng: văn học đầu thế kỷ, văn học thời kỳ Xô Viết, văn học Nga ở hải ngoại và văn học Nga hậu Xô Viết). Nhưng việc nhận chân những giá trị của mảng văn học này với tư cách là một bộ phận của văn học Nga thế kỷ XX thì dường như diễn ra quá chậm (mãi đến những thập niên 70, 80 trở đi của thế kỷ XX) và phức tạp, thậm chí có ý kiến đối lập nhau.

  • TRẦN THANH MẠILTS: Nhà văn Trần Thanh Mại (1908-1965) là người con xứ Huế. Tên ông đã được đặt cho một con đường ở đây và một con đường ở thành phố Hồ Chí Minh. Trần Thanh Mại toàn tập (ba tập) cũng đã được Nhà xuất bản Văn học phát hành năm 2004.Vừa rồi, nhà văn Hồng Diệu, trong dịp vào thành phố Hồ Chí Minh dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Trần Thanh Mại, đã tìm thấy trang di cảo lưu tại gia đình. Bài nghiên cứu dưới đây, do chính nhà văn Trần Thanh Mại viết tay, có nhiều chỗ cắt dán, thêm bớt, hoặc mờ. Nhà văn Hồng Diệu đã khôi phục lại bài viết, và gửi cho Sông Hương. Chúng tôi xin cám ơn nhà văn Hồng Diệu và trân trọng giới thiệu bài này cùng bạn đọc.S.H

  • TRẦN HUYỀN SÂMLý luận văn học và phê bình văn học là những khái niệm đã được xác định. Đó là hai thuật ngữ chỉ hai phân môn trong Khoa nghiên cứu văn học. Mỗi khi khái niệm đã được xác định, tức là chúng đã có đặc trưng riêng, phạm trù riêng. Và vì thế, mục đích và ý nghĩa của nó cũng rất riêng.