Cần đọc lại bài thơ 'Khâm Vãn Đan Dương Lăng' của Ngô Thời Nhậm

15:08 04/03/2016

PHAN HỨA THỤY

Thời gian gần đây ở Huế, việc tìm kiếm lăng mộ vua Quang Trung đã trở thành một vấn đề sôi động.

Ảnh: internet

Cho đến nay, công việc ấy đang được tiếp tục một cách tích cực, giới nghiên cứu đã có nhiều nỗ lực trong việc tiếp cận với tư liệu, thư tịch và khảo sát thực địa để đưa ra những kiến giải mới, khiến cho vấn đề ngày càng có hy vọng sáng tỏ và đã được dư luận quan tâm đánh giá đúng mức. Đó là điều đáng quý.

Trong số những cách kiến giải ấy đã có không ít ý kiến coi bài thơ Khâm Vãn Đan Dương Lăng của Ngô Thời Nhậm như là một tư liệu hướng đạo trong việc tìm kiếm lăng mộ vua Quang Trung, từ đó người ta cố vận dụng dịch học và thuật phong thủy vào bài thơ để đi đến khẳng định đây là bài đặc tả mộ Quang Trung. Quả như thế không?

Sử sách xưa cũng như người đời nay đều không còn nghi ngờ gì nữa về tình cảm của Ngô Thời Nhậm đối với vua Quang Trung, tình cảm ấy đã thể hiện chứa chan trong từng trang thơ của Ngô Thời Nhậm. Càng đọc, chúng ta càng trân trọng cái phẩm chất cao đẹp của một bề tôi tận tụy đối với một vị minh quân: kính cẩn thủy chung khi nhà vua đương tại vị, xót xa tận lễ khi nhà vua băng hà, bài Khâm Vãn Đan Dương Lăng là một minh chứng cụ thể về tình cảm ấy. Bài thơ như sau:

KHÂM VÃN ĐAN DƯƠNG LĂNG

Long ngự nan phan tử cực đường,
Kim nguyên trướng vọng cửu hồi đường,
Nhung y thần vũ lưu bằng tạ,
Phương sách anh mô địch hiến chương.
Trắc giáng hoàng linh khâm tại tả,
Bảo minh thánh dận ngưỡng đương dương.
Tài bồi thiên đức tư thù báo,
Khôn đạo vô tha lợi trực phương.

Xin tạm dịch xuôi như sau:

KÍNH VIẾNG LĂNG ĐAN DƯƠNG.

(Nhà vua) đã cưỡi rồng lên nhà tử cực, khó mà vin theo,
Buồn trông chốn suối vàng quanh co chín khúc,
Võ công oanh liệt lưu lại để làm nơi nương tựa,
Mưu lược sáng ngời đã mở đường cho khuôn phép.
Anh linh nhà vua lên xuống, kính cẩn ở bên trái,
Nghiệp thánh gìn giữ phát huy, ngửa trông theo hướng nam.
Đức trời vun đắp, phải lo báo đáp,
Đạo quẻ khôn không gì ngoài lợi ở thẳng và vuông.

Đọc kỹ, ta thấy đây là bài thơ diễn tả tình cảm của một trung thần có tài năng và trách nhiệm đối với nhà vua - một vị anh hùng - đột ngột ra đi giữa lúc sự nghiệp đang dang dở. Chúng tôi cho rằng bài Khâm Vãn Đan Dương Lăng không hề có ý mô tả lăng vua Quang Trung, lại càng không phải có những gợi ý về cấu trúc lăng mộ nhà vua trên cơ sở dịch học và phong thủy. Bởi vì:

1. Cái quý của thơ Ngô Thời Nhậm là phần lớn trên đầu mỗi bài đều có lời dẫn, đó là một cứ liệu xác đáng giúp người đọc biết được hoàn cảnh sáng tác để dễ đánh giá đúng bài thơ. Nguyên dẫn bài Khâm Vãn Đan Dương Lăng, Ngô Thời Nhậm viết:

"Đại đế vua tôi chủ ở nghĩa, cha con chủ ở ơn, cái luân lý lớn của đạo làm người thì chỉ là một. Nhưng vua biết tôi, cha biết con, đối với sự cảm kích cái ơn, nghĩa lại phải thế nào? Bài thơ trước của tôi có câu... vọng Đan Dương, do bởi được đề cử đi sứ mà thành thơ. Nay được thơ ông (tức Phan Huy Ích - PHT), lại chợt có cảm nghĩ: gần đến ngày giỗ của ông thân, bồi hồi xúc động làm được hai bài: Khâm vãnCung ức theo y vần, trình ông xem".

Như vậy bài Khâm Vãn Đan Dương Lăng được làm cùng lúc với bài Cung ức Nhị Thanh Động trong thời gian gần đến ngày giỗ của Ngô Ngọ Phong. Một bài là kính viếng (Khâm vãn) lăng nhà vua, một bài là kính nhớ (Cung ức) nơi ở của cha. Nhân ngày giỗ cha mà liên tưởng đến vua Quang Trung, đó là tình cảm chân thành của Ngô Thời Nhậm mà cũng là thứ tình cảm thường thấy ở giới nho sĩ: đạo quân thần. Từ một tấm lòng, một hoàn cảnh, hai bài thơ đã biểu lộ hai khía cạnh, hai trách nhiệm của một con người, đó là cái ơn cái nghĩa của phận làm tôi, làm con như tác giả viết. Cảm hứng để viết bài thơ chính là tình cảm chứ không phải gì khác.

2. Chữ Vãn (trong Khâm vãn...) có nghĩa là lời viếng kẻ quá cố, tỏ sự thương xót của người còn đối với kẻ mất. Cho nên Khâm Vãn Đan Dương Lăng không nên hiểu là kính đến thăm lăng Đan Dương mặc dù phải dịch là Kính viếng lăng Đan Dương. Vì vậy chúng tôi cho rằng bài thơ này không phải được viết trong hay sau khi tác giả đi thăm lăng Đan Dương về mà rõ ràng xuất xứ của bài thơ là cùng mạch cảm xúc với bài Cung ức Nhị Thanh Động như tác giả đã cho biết.

3. Có ý kiến cho bài Khâm Vãn Đan Dương Lăng là bài thơ tả lăng vua Quang Trung, nhưng xét bố cục của bài thơ trên cơ sở cấu trúc ổn định của thơ Đường luật thì không thấy câu nào là câu miêu tả lăng rõ nét. Ngoài câu phú, thừa đề và cặp kết, thường hai cặp thực và luận của bài thơ là phải miêu tả, bình phẩm đề tài chính của bài thơ, cụ thể ở đây là lăng Đan Dương, nhưng trong Khâm Vãn Đan Dương Lăng thì cặp thực và luận chỉ nhằm ca ngợi võ công, sách lược và anh đức của nhà vua. Nhưng từ tại tả (ở bên trái, bên quan trọng: nam tả nữ hữu, tả văn hữu võ...) hay đương dương (do chữ thiên tử đương dương: bậc thiên tử ngồi xoay về hướng nam, đây chỉ vua Quang Trung), ngoài ra tuyệt không có từ nào cho phép ta hình dung lăng mộ của nhà vua như thế nào dù phải hiểu theo nghĩa ẩn tương của dịch học. Rõ ràng hai cặp thực và luận của bài thơ là sự đánh giá sâu sắc của nhà thơ đối với nhà vua và vị trí của nhà vua trong lòng nhà thơ, vì thế không thể xem bài thơ nầy có ý tả lăng được.

4. Nói bài thơ Khâm Vãn Đan Dương Lăng tả lăng vua Quang Trung theo nghĩa dịch học, chắc là căn cứ vào các từ tử cực đường, cửu hồi đường và toàn câu cuối của bài thơ. Thực ra câu cuối của bài thơ thì có màu sắc dịch học nhưng cũng không phải để tả lăng, còn hai từ kia thì không.

Tử cực, tử viên hay tử viên cung là ở phía bắc của bắc đẩu (theo Tấn thư - Thiên văn chí), là nơi trung tâm của trời (theo Tống sử - Thiên văn chí), tức là nơi mà mọi vì sao phải châu về, đó cũng chỉ cái ngôi cao quý của đế vương đầy đủ oai đức, đây chỉ cái vị trí cao quý trân trọng của vua Quang Trung khi nhà vua mất. Còn cửu hồi là do chữ cửu hồi trường (theo Từ nguyên) có nghĩa là chín khúc ruột, chỉ sự đau đớn xót xa. Điều đáng lưu ý là suốt 10 bài trong tập Cúc Hoa Thi Trận của Ngô Thời Nhậm và 44 bài trong Cúc Hoa Bách Vịnh của Phan Huy Ích là hai tập thơ xướng họa của hai ông đều gieo chỉ một vần và chỉ hạn trong năm chữ Đường, Đường, Chương, Dương và Phương, D, cho nên tử cực đường, cửu hồi đường tuy có bị hạn chế do cách gieo vần nhưng kì thực cũng không ngoài những nghĩa đã nêu trên. Ta không nên vì bị ấn tượng của dịch học mà gán cho câu thơ những con số bí hiểm làm cho bài thơ vốn giản dị tươi mát trở thành khúc mắc phức tạp, sai lạc ý đồ của tác giả.

Người xưa thường ví bài thơ Đường như thể giọt sương: nhọn ở trên và tù nặng ở dưới, hình ảnh ví von ấy ám chỉ trọng lượng của bài thơ Đường tụ lại ở cặp kết, vì thế nên Phan Ngọc có lí khi cho rằng muốn dịch một bài thơ Đường trước hết hãy dịch thành công hai câu cuối. Thật thế, giá trị của bài Khâm Vãn Đan Dương Lăng cũng chính là hai câu cuối:

Tài bồi thiên đức tư thù báo,
Khôn đạo vô tha lợi trực phương.

(Đức trời vun đắp, phải lo báo đáp,
Đạo quẻ khôn không gì ngoài lợi ở thẳng và vuông).

Trong dịch học, nếu Càn là tượng trời, dương, nam, trên... thì Khôn là tượng đất, âm, nữ, dưới... Câu cuối của bài thơ, Ngô Thời Nhậm đã mượn lời quẻ Khôn trong kinh Dịch: Lục nhị: Trực, phương, đại, bất tập vô bất lợi (Hào sáu hai: thẳng, vuông, lớn, không tập mà không gì là không lợi) để tỏ bày lòng trung chính, thủy chung của mình đối với anh linh vua Quang Trung. Theo kinh Dịch, hào Lục nhị là chủ của quẻ Khôn: ngay thẳng ở bên trong là trực, vuông vức bên ngoài là phương, lại có qui mô quảng lượng nên gọi là đại, đất (tượng của quẻ Khôn) có đủ ba đức ấy thì tự nhiên không gì là không lợi (bất tập vô bất lợi). Quẻ Khôn còn ứng với bậc quân tử, là người cần đức nhu thuận, trung chính, được như vậy thì khi ứng xử sẽ không gì là không lợi. Như vậy, câu thơ là một lời hào trong dịch học, nhưng tứ thơ thì vẫn là cái tình, tình vua tôi, qua câu thơ ta còn thấy trước bao dâu bể, nhà thơ còn có dịp bình tâm để xác định chỗ đứng và trọng trách của mình, vững tin vào sự nghiệp chung của dân tộc và triều đại. Chư thiên đức (đức trời) trong câu bảy cũng chỉ là ân đức của vua Quang Trung, vì ân đức đã được nhà vua dày công bồi đắp nên kẻ trung chính phải lo cách để báo đáp, làm được điều đó mới xứng đáng là bậc quân tử đầy đủ thịnh đức nhu thuận và trung chính. Đây chính là tấc lòng, là quyết tâm của nhà thơ mà cũng là chất nặng của bài thơ.

5. Ngô Thời Nhậm là người tinh thông dịch học, đó là điều không phải bàn cãi nữa, nhưng cố vận dụng kiến thức dịch học vào việc cắt nghĩa bài thơ Khâm Vãn Đan Dương Lăng để đi đến giả thiết bài thơ mô tả lăng vua Quang Trung thì quả là thiếu cơ sở. Chúng tôi không muốn dài dòng về những con số của dịch học hay phương hướng huyệt mộ theo thuật phong thủy, bởi vì bài Khâm Vãn Đan Dương Lăng không hề gợi ra những con số ấy, mặt khác một ngôi mộ cổ, nhất là ngôi mộ có qui mô lớn thì ngôi nào mà không đủ các yếu tố phong thủy như long, sa, thủy, tả thanh long, hữu bạch hổ... bởi những yếu tố ấy bất quá cũng chỉ là sự tưởng tượng tùy theo địa thế và qui mô to nhỏ mà thôi. Cho nên nếu lăng Ba Vành có hội đủ những yếu tố ấy cũng chưa phải là lạ, mà cái lạ là từ một bài thơ thuần túy tình cảm đã dẫn đến việc phác thảo lăng mộ vua Quang Trung đủ phương ngang hướng dọc. Ai biết được huyệt của một ông vua nằm ở đâu dù lăng tẩm sờ sờ ra đấy, nghi lễ của bậc thiên tử khi đưa thi hài vào tẩm là đi theo một con đường ngầm gọi là toại đạo (Tunnel), nói nghi lễ chứ kì thực là giữ bí mật. Đám tang vua Quang Trung có được tổ chức theo nghi lễ ấy hay không, điều đó ta chưa dám quả quyết, nhưng chắc chắn huyệt mộ của ông cũng phải được giữ bí mật, và tất nhiên một trọng thần như Ngô Thời Nhậm càng phải có trách nhiệm bảo vệ điều bí mật ấy. Người đọc cũng thông minh như người viết thì lẽ nào chỉ một câu thơ bảy chữ mà Ngô Thời Nhậm đã công bố trọn vẹn điều bí mật đáng ra phải giữ kín ngàn năm?

Chúng tôi cho rằng nhóm biên soạn Tuyển tập thơ văn Ngô Thời Nhậm đã làm việc có trách nhiệm khi dịch bài Khâm Vãn Đan Dương Lăng, hoàn toàn không có ý bỏ quên phần tả lăng của bài thơ mà chỉ chú trọng đến mặt tình cảm. Bởi vì nội dung bài thơ chủ yếu là tình cảm, cảm hứng chủ đạo để viết bài thơ cũng là tình cảm, ngoài ra không còn gì khác.

Bài Khâm Vãn Đan Dương Lăng là một trong hai bài thơ gây nhiều dư luận ở Huế khoảng gần đây, ở đây chúng tôi không có ý làm cho vấn đề thêm phức tạp mà chỉ muốn loại trừ những giả thiết thiếu cơ sở, gói gọn dần lại, để hy vọng khi ta có phát hiện được lăng mộ vua Quang Trung thì chí ít số giấy bút chi dụng kia cũng không vượt quá số gạch vữa ngôi mộ của vị anh hùng từng nổi tiếng là một ông vua chuộng sự tiết giảm.

P.H.T.
(TCSH39/09&10-89)





 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Trong đội ngũ những người hoạt động văn nghệ tại Thừa Thiên Huế, bên cạnh các Hội chuyên ngành trực thuộc Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật (như Hội Nhà văn, Hội Mỹ thuật, Hội Âm nhạc…) có một tổ chức gọi là “Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Thừa Thiên Huế”(CHNV).

  • Hà Khánh Linh xuất thân trong một gia đình khoa bảng nổi tiếng ở Huế. Tên khai sinh của chị là Nguyễn Khoa Như Ý. Năm 20 tuổi, đang học dở dự bị đại học Khoa Học Sài Gòn thì chị quyết định bỏ học để gia nhập quân Giải phóng. Từ đó cho đến khi nghỉ hưu chị đã từng đi dạy, làm phóng viên Đài phát thanh Giải phóng, Đài phát thanh Bình Trị Thiên, làm biên tập, Thư ký Tòa soạn rồi Phó tổng biên tập Tạp chí Sông Hương. Chị quen biết và giao tiếp khá rộng từ các vị quan chức đến các vị đại đức, linh mục, trí thức... cùng những năm tháng gian khổ ở chiến trường Trị Thiên, những chuyến đi thực tế ở Căm pu chia... đã giúp chị có một vốn sống hết sức phong phú.

  • Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ sinh ra và lớn lên bên bờ sông Kiến Giang thơ mộng. Nhưng tuổi thơ của chị chứa đầy buồn đau và nước mắt: Mẹ không có cửa nhà/  Em đứa trẻ vắng cha/ Như mầm cây trên đá/ Biết khi nào nở hoa? Nỗi tuyệt vọng cứ ám ảnh suốt cả tuổi thơ của chị. Trong một bài thơ đầu tay chị viết: Tuổi thơ tôi như ráng chiều đỏ lựng/ Hắt máu xuống dòng sông đen.

  • Trần Thùy Mai bắt đầu được các bạn trẻ yêu thích văn chương ở Huế biết đến khi chị đang học ở trường Đồng Khánh những năm trước giải phóng (1975). Tốt nghiệp vào loại xuất sắc, chị được giữ lại làm cán bộ giảng dạy ở trường đại học Sư phạm Huế. Dạy ở trường đại học Sư phạm Huế được một vài năm, chị chuyển sang làm công tác biên tập ở nhà xuất bản Thuận Hóa. Đây là một quyết định khá táo bạo và sáng suốt. Làm việc ở nhà xuất bản, chị có điều kiện viết lách hơn.

  • LÊ HUỲNH LÂM                 (Đọc Viết bên Hộ Thành hào - thơ Nguyên Quân -, Nxb Thuận Hoá, 2009)Giữa những đổ nát hoang tàn quá khứ và hiện tại, khi mà thang giá trị bị đảo lộn, những mảnh vỡ đang vung vãi mọi nơi, tác giả lại tìm đến Hộ Thành hào để nhìn ngắm cõi lòng đang hỗn hênh mọi thứ và như chợt nhận ra niềm hy vọng mỏng mảnh, anh đã Viết bên Hộ Thành hào.

  • HOÀNG DIỆP LẠCBất chợt giữa một ngày mưa gió, nhìn những hạt nước toé lên từ mặt đất như những đoá hoa mưa. Một loài hoa của ảo giác. Có thể trong tâm trạng như vậy, Lê Tấn Quỳnh chợt hỏi:Hoa vông vangCó hay không

  • ĐINH NAM KHƯƠNG(Thơ Tuyết Nga - NXB Hội Nhà văn 2002)

  • NGUYỄN VĂN HOA1. Cuối thế kỷ 20, tôi làm cuốn sách “Tuyển tập thơ văn xuôi Việt Nam và thế giới” cùng tiến sỹ Nguyễn Ngọc Thiện (Viện Văn học Việt Nam), trong tập sách này gồm phần học thuật và phần tuyển thơ Việt Nam và Thế giới. Phần thơ Việt có nhiều tác giả sinh sống ở Huế, ngẫu nhiên-tình cờ có hai nhà thơ có thơ trong tập này, đó là Hải Bằng và Hải Trung.

  • NGA LINH NGA1. Xuất bản mười hai tập thơ, mười hai tập văn xuôi, một tập nhạc; viết mười hai kịch bản phim chân dung, hai mươi lời bình cho các phim khác, biên soạn hai mươi tập nhạc... điều thật khó tin ở một người nổi tiếng rong chơi, thích cao đàm khái luận, thường không mấy khi vắng mặt nơi những cuộc rượu của đám văn nghệ Hà Thành như Nguyễn Thụy Kha.

  • L.T.S: Trong vài năm lại đây, ở Huế, chưa có tập sách nào ra đời lại gây được “hiệu ứng ngạc nhiên” cho bạn đọc như một hiện tượng ngoài tập Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa ấn hành vào dịp kỷ niệm 30 năm ngày giải phóng Huế và Đà Nẵng vừa qua. Ngoài các bài viết giới thiệu, phê bình in trên nhiều tờ báo trung ương và địa phương, Sông Hương vẫn tiếp tục nhận được thêm các ý kiến cảm thụ về tập thơ này.Xin trân trọng giới thiệu cùng quý bạn đọc

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG           (Đọc tập thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)

  • YÊN CHÂU          (Đọc Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)Giống như những cây xanh bói muộn bất ngờ cho một mùa hoa trái, thơ Nguyễn Xuân Hoa xuất hiện đột ngột như vậy. Anh không cho in rải rác đâu đó, cũng không đọc thơ ở những cuộc gặp gỡ bạn bè. Im lặng, đùng một cái cho ra hẳn một tập thơ. Thơ Trà My của nguyễn Xuân Hoa đã đến với bạn bè như vậy.

  • BÙI ĐỨC VINH            (Nhân đọc tập thơ “Cho người tôi thương nhớ”-NXB Hội Nhà văn 2004)Có một chàng thi sĩ phong tình đi lang thang vô định trên nẻo đường mưa bay gió tạt, chợt lơ đãng nhận ra mình là kẻ bị tình yêu truy nã trong bài thơ “Nhận diện” anh đã tự thú với trái tim thổn thức của mình.

  • INRASARA           (Đọc Mang, tập thơ của Phan Trung Thành, Nxb, Trẻ TP.Hồ Chí Minh, 2004.)Dòng Seine và cầu Mirabeau, cuộc tình với người tình. Sông đi và cầu ở lại, cuộc tình tan nhưng người tình thì ở lại. Mãi mãi ở lại, cùng nỗi buồn ở lại.                Con sông nào đã xa nguồn                Thì con sông đó sẽ buồn với tôi                                                (Thơ Hoài Khanh)

  • THANH THIỆNBốn mùa yêu là tập thơ tình mang ý nghĩa "vật chứng" cho một biệt lập tâm hồn có tên là Lưu Ly. Người thơ này dường như luôn đắm mình trong giai điệu tình yêu muôn thuở giữa ba ngôi Trao - Nhận - Trả và đã chọn cách trả sòng phẳng nhất cho sự nhận của mình là trả vào thơ.

  • NGUYỄN VĂN HOA(Nhân đọc Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường)Tôi đã đọc nhiều tác phẩm của Hoàng Phủ Ngọc Tường và tôi cũng đã gặp ông trực tiếp đôi ba lần ở Huế và Hà Nội. Nhưng ấn tượng nhất là buổi hội ngộ của gia đình tôi với ông ở nhà nhà thơ Ngô Minh ở dốc Bến Ngự Huế.

  • HOÀNG VŨ THUẬT         (Thơ Chất trụ của Nguyễn Hữu Hồng Minh- Nxb Thuận Hoá 2002)Nguyễn Hữu Hồng Minh không làm cái phép phù thuỷ đưa độc giả tới một không gian rắc rối. Quan niệm về thơ của anh được trình bày rất nghiêm túc qua bài “Chất trụ”, lấy tên cho tập thơ. Tôi rất đồng tình quan niệm này, không mới, nhưng không dễ làm người ta chấp nhận.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN(Đọc Dòng sông Mía của Đào Thắng)

  • TRẦN THIÊN ĐẠOCứ suy theo nhan đề, thì chúng ta có thể xếp các trang Viết về bè bạn - Tập chân dung văn nghệ sĩ (NXB Hải Phòng, 2003) của Bùi Ngọc Tấn cùng một loại với mấy tập sách đã ra mắt bạn đọc vài ba năm nay.

  • NGÔ MINHDi chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh do BCH TW Đảng công bố  trong ngày tang lễ Bác tại Quảng trường Ba Đình ngày 3-9-1969 (năm Kỷ Dậu) là một tác phẩm văn hóa lớn, thể hiện tình yêu Tổ Quốc, yêu nhân dân và nhân cách vĩ đại của Bác Hồ.