TRẦN TRIỀU LINH
(Đọc Đi ngược đám đông - Thơ Đông Hà, Nxb. Thuận Hóa, 2014)
Con người sinh ra đã trở thành kẻ liên can và nhập cuộc kể từ khi bị quẳng ném vào xã hội. Thông thường, con người luôn có khát vọng nối kết mình với tha nhân để thoát khỏi sự vây khốn của nỗi cô đơn nhưng càng nuôi khát vọng đó, con người càng lún sâu vào cô đơn. Khi không thông hiểu được tha nhân, con người quay trở lại tự vấn chính mình, tự nói với mình và tự khóc với mình.
Đi ngược đám đông cũng có nghĩa là đi đến ốc đảo của sự cô đơn, quay mặt lại với đám đông để mong tìm đến cái khác, cái lạc loài và tất nhiên ở đây, thơ và nhà thơ đang đi vào địa hạt của sự cô đơn, sự cô đơn sâu thẳm luôn hiện hữu trong những kẻ khát sống, khát yêu và khát thông hiểu thế giới.
Khi nhà thơ đi ngược đám đông thì tất nhiên nhà thơ phải tự nói với chính mình, nghĩa là phải độc thoại nội tâm, thậm chí phải phân thân để có được những cuộc thoại cho thơ hình thành. Trước hết, trong hành trình tìm về với chính mình, Đông Hà bắt đầu bằng những câu hỏi về thời gian, về sự hiện hữu, về những giới hạn và về những vô hạn của sự hiện hữu:
“Hề chi hề chi
chỉ cần tích tắc
cũng thành trăm năm
chỉ cần nước mắt
cũng thành phúc âm…”
Đó là sự ám ảnh khôn nguôi về thời gian và hơn nữa là về thân phận của những kẻ đi ngược lại với niềm vui, khước từ niềm vui để cho nước mắt trở thành nơi khởi đi của thơ và của lòng mình.
Xuyên suốt Đi ngược đám đông là những lời nói của T. T ở đây là một nhân vật, là một ký hiệu và cũng có thể là một cái cớ để nhà thơ tự nói với chính mình. Ở đây, T không rõ hình dạng, T được tẩy trắng, T hiện hữu thông qua ngôn ngữ và những hình ảnh sinh ra từ ngôn ngữ, ngôn ngữ của T là ngôi nhà giúp T lưu trú để T tự bày tỏ lòng mình, để T tự vấn mình, tự trình ra những xúc cảm cô đơn sâu thẳm trong mình.
vậy mà cũng gọi thành tên
thuyền quyên ứ hự… thả trên tay người
anh đau một chuyến nghi ngờ
T về hái thuốc ngồi chờ kiếp sau…
Trên hành trình truy tìm chính mình, đôi khi T vẫn không dứt khoát được với sự vẫy gọi của tình yêu. T vẫn khát yêu, vẫn khát vọng hướng tới tình yêu, hướng tới những bến bờ khác, những bến bờ không có mưa rơi và có lẽ đó cũng chính là những bến bờ không có nước mắt.
Như nửa chiều bên này tầm tã mưa rơi
anh đi bên kia sao sợ lòng T ướt…
Thơ, nói cho cùng cũng chính là nơi bày tỏ nỗi lòng nhà thơ. Trong sự ồn ào cách tân thơ hôm nay, thơ phần nào trở lên sáo mòn và rỗng nghĩa bởi chúng đi ra từ ngôn ngữ của những người làm thơ thiếu cảm xúc, thiếu sự khát sống và yêu thương cuồng nhiệt. Thơ Đông Hà không rơi vào bi kịch này. Có thể thấy rằng những dấu vết truyền thống trong thơ Đồng Hà cũng chính là thái độ của nhà thơ trong việc lựa chọn cho mình một lối viết không hòa chung vào những người ưa cách tân. Vì thế, thơ Đông Hà luôn chứa đựng những cảm xúc thực, những cảm xúc đi ra từ chính những vết thương đến từ sự va đập của nhà thơ với đám đông, với thế giới và với chính lòng mình.
Trên hành trình đi ngược đó, đôi khi T muốn quay lại để réo gọi tha nhân. T muốn nghe thấy tiếng nói của tha nhân để không rơi vào hố thẳm của sự đơn độc nhưng tiếng gọi không có tiếng trả lời, tiếng gọi rơi hút vào mênh mông.
Gọi gì cũng không lời động vọng
T nghe thương nhớ cứ xoay vòng
mỏi mắt chớp đời ơi biển động
đâu là mình giữa mênh mông…
“Đâu là mình giữa mênh mông…” - Câu thơ như xô đẩy người đọc cùng với T trượt trôi vào nơi sâu hút của cô đơn, người đọc và T dường như không trốn chạy sự cô đơn nữa mà đang thụ cảm sự cô đơn như những kẻ phi lý thụ hưởng cảm thức phi lý ngay trong chuỗi hành trình tồn tại trên thế gian đầy rẫy những phi lý.
Và sự xô đẩy đến tận cùng cô đơn đã sản sinh ra những hình ảnh thơ lạ, lạ nhưng lại gần gũi bởi chúng được làm nên bởi những cảm xúc thực sự, những xúc cảm không dối lừa hay làm dáng:
Gọi gì cũng không lời động vọng
T treo thương nhớ dưới hiên nhà
Khi tha nhân không đáp trả những tiếng gọi, khi cuộc đời ai cũng có những chiêm bao riêng cho mình thì T chỉ biết đưa mình bước vào những giấc mơ. Và chính điều này khiến ta nghĩ tới những lý giải mà phân tâm học của Sigmund Freud đã chỉ ra: Giấc mơ chính là những xung năng không được giải phóng khi ta thức… Khi những khát vọng yêu thương không được giải phóng T đưa mình vào nơi sâu hút của giấc mơ. Trò chuyện với những giấc mơ, trong mơ, T tưởng mình gặp được tha nhân để cùng mình hoan lạc với những nỗi niềm ấy, và cứ thế T đu mình theo những giấc mơ và ảo ảnh:
T đã mơ
…
nên chiều qua mưa như giông
nên lòng ai như không
như không và mơ và gặp
mơ
T đã gặp…
Thơ trở nên tối giản, để lại những khoảng trắng, khoảng trống trong lòng ngôn ngữ để vẫy gọi người đọc cùng với nhà thơ cảm nhận sự im lặng của cuộc đời. Và có lối yêu thương nào được mở ra không khi trong cơn lốc xoáy T chơ vơ giữa ngã ba đường… Và khi cuộc đời trần trụi không cho T hơi ấm, không mở lối yêu thương để T cuống quýt và đam mê thì T tìm tới với tâm linh, tìm tới thế giới của sự giải thoát, của cái không, của những điều vô hình.
Như bữa này T lên chùa thỉnh kinh
hồi chuông nói rằng mây đang xuống núi
T mở hầu bao mua núi chở về…
Nhưng có giải thoát được không khi lòng T quá rộng, trái tim T quá nhạy cảm với cuộc đời. Tưởng như quay mặt lại với đám đông nhưng T luôn réo gọi, lòng T luôn réo gọi, những vết thương trong T luôn réo gọi, T mong có tiếng nói bên sông đáp trả mình. Và vì thế mà T lại chấp chới giữa đôi bờ yêu thương, đôi bờ thiện ác, đôi bờ đêm đen, đôi bờ ánh sáng:
Bên này sông là đêm
bên kia sông là tối
T lội giữa dòng chập chững không trôi…
T sẽ về đâu trong cuộc lữ này? T đến từ đâu? T trôi dạt hướng nào? T chính là ai? Đó là những câu hỏi chúng ta không thể trả lời được và có lẽ không cần thiết phải trả lời, bởi T là thơ và thơ thì thường thế, mộng mơ nhưng không rõ hình thù. Chúng ta chỉ biết rằng khi tha nhân không đáp trả, khi cuộc đời ai cũng bận bịu với những chiêm bao của mình thì T sẽ lại một mình đi ngược đám đông.
T.T.L
(SH308/10-14)
1. Kawabata Yasunari (1899 -1972) là một trong những nhà văn làm nên diện mạo của văn học hiện đại Nhật Bản. Ông được trao tặng giải Nobel năm 1968 (ba tác phẩm của Kawabata được giới thiệu với Viện Hoàng gia Thụy Điển để xét tặng giải thưởng là Xứ Tuyết, Ngàn cách hạc và Cố đô).
(Thơ Đỗ Quý Bông - Nxb Văn học, 2000)Đỗ Quý Bông chinh phục bạn hữu bằng hai câu lục bát này:Đêm ngâu lành lạnh sang canhTrở mình nghe bưởi động cành gạt mưa.
Thạch Quỳ là nhà thơ rất nhạy bén trong việc nắm bắt thông tin và chóng vánh tìm ra ngay bản chất đối tượng. Anh làm thơ hoàn toàn bằng mẫn cảm thiên phú. Thơ Thạch Quỳ là thứ thơ có phần nhỉnh hơn mọi lý thuyết về thơ.
Kỷ niệm 50 năm ngày mất nhà văn Nam Cao (30.11.1951-30.11.2001)
Có một con người đang ở vào cái tuổi dường như muốn giũ sạch nợ nần vay trả, trả vay, dường như chẳng bận lòng chút nào bởi những lợi danh ồn ào phiền muộn. Đó là nói theo cái nghĩa nhận dạng thông thường, tưởng như thế, nơi một con người đã qua "bát thập". Nhưng với nhà thơ Trinh Đường, nhìn như thế e tiêu cực, e sẽ làm ông giận dỗi: "Ta có sá gì đi với ở".
Nhà thơ Trinh Đường đã từ trần hồi 15g10’ ngày 28.9.2001 tại Hà Nội, thọ 85 tuổi. Lễ an táng nhà thơ đã được tổ chức trọng thể tại quê nhà xã Đại Lộc huyện Duy Xuyên tỉnh Quảng , theo nguyện vọng của nhà thơ trước khi nhắm mắt.
Phan Ngọc, như tôi biết, là người xuất thân trong gia đình Nho giáo, đã từng làm nghề dạy học, từ năm 1958 chuyển sang dịch sách, là người giỏi nhiều ngoại ngữ. Hiện nay, ông đang là chuyên viên cao cấp của Viện Đông Nam Á (Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia).
Có những con người mà ta chỉ gặp một đôi lần trong đời để rồi mãi nhớ, mãi ám ảnh về họ. Với tôi, nhà văn Trần Dần là người như vậy.
Trước tình hình số tập thơ được xuất bản với tốc độ chóng mặt, người ta bỗng nhiên cảm thấy e ngại mỗi khi cầm một tập thơ trên tay. E ngại, không phải vì người ta sợ nhọc sức; mà e ngại vì người ta nghĩ rằng sẽ phải đọc một tập thơ dở! Cảm giác ấy xem ra thật là bất công, nhưng thật tình nó quả là như vậy.
Những năm từ 1950 khi học ở trường trung học Khải Định (Quốc học Huế), tôi đã đọc một số bài thơ của Dao Ca đăng trên một số tờ báo như Đời mới, Nhân loại, Mới, Thẩm mỹ...
Tôi đến tìm ông vào một buổi sáng đầu đông, trong căn nhà ngập tràn bóng tre và bóng lá. Nếu không quen ắt hẳn tôi đã khá ngỡ ngàng bởi giữa phồn hoa đô hội lại có một khu vườn xanh tươi đến vậy!.
LTS: Rạng sáng ngày 11-7-2001, Toà soạn nhận được tin anh Đoàn Thương Hải - hội viên Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế, sau một cơn đột quỵ, mặc dù đã được gia đình, bạn bè và các thầy thuốc Bệnh viên Trung ương Huế tận tình cứu chữa nhưng không qua khỏi, đã rời bỏ chúng ta an nhiên về bên kia thế giới!Tạp chí Sông Hương - Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế xin có lời chia buồn sâu sắc tới gia quyến nhà văn.Sông Hương số này xin giới thiệu hai bài thơ cuối cùng của anh được rút ra từ tập thơ chép tay lưu giữ tại gia đình.TCSH
Thơ Đặng Huy Giang xuất hiện trên thi đàn đã nhiều năm nay; song thật sự gây ấn tượng với bạn đọc phải kể đến một vài chùm thơ mà báo Văn nghệ đăng tải trên trang thơ dự thi 1998 - 2000; đặc biệt sau đó anh cho ra mắt bạn đọc hai tập thơ một lúc: Trên mặt đất và Qua cửa.
Có lẽ với phần lớn không gian thơ Phan Trung Thành, làm thơ là trò chuyện ân tình với những bóng dáng cũ, thuộc về quê nhà.
Trong bài viết điểm lại văn học năm 2000, sự kiện và bình luận, tôi có nêu hai tác giả trẻ, cùng là nữ, cùng có tác phẩm đáng chú ý trong năm, một người tập truyện, một người tập thơ. Người thơ là Vi Thùy Linh.
(Đọc “Gặp lại tuổi hai mươi”(*) của Kiều Anh Hương)Ngay bài thơ in đầu tập “Vùng trời thánh thiện” có hai câu đã làm tôi giật mình, làm tôi choáng ngợp: “Những lo toan năm tháng đời thường Như tấm áo chật choàng lên khát vọng”
đầu tháng 4 năm ngoái, sau khi tuần báo “Văn nghệ” của Hội Nhà văn Việt Nam đăng truyện ngắn dự thi “Quả đồng chùy tóc bện” của Trần Hạ Tháp - một bút danh “mới toanh” trên văn đàn, tôi ghé tòa soạn “Sông Hương” hỏi nhà văn Hà Khánh Linh:- Chị biết Trần Hạ Tháp là ai không? Tác giả chắc là người Huế...
Trương Văn Hiến có sở học phi thường và mang trong người một hoài bão lớn lao: an bang tế thế bình thiên hạ.
(Qua “Sau tách cà phê” của Nguyễn Trác, Nhà Xuất bản Hội Nhà văn, Hà Nội, 2000.)1- Sau năm năm từ “Chiếc thuyền đêm” (năm 1995), hình như “đến hẹn lại lên”, nhà thơ Nguyễn Trác lại ra mắt bạn đọc tập “Sau tách cà phê”.
Thơ là một bức xúc của tình cảm và tư tưởng con người, buộc con người phải diễn ra bằng ngôn ngữ, âm thanh, màu sắc, đường nét, hình khối. Thơ là đòi hỏi, là nhu cầu của con người, nếu không biểu lộ được ra thì còn bức rứt khổ sở.