Cảm quan và cảm quan nghệ thuật

10:39 17/09/2015

NGUYỄN THỊ TUYẾT

A work of art was a form expressive of human feeling,
Created for our aesthetic perception through sense or imagination.

- S. Langer(1)
I paint objects as I think them, not as I see them.
- Pablo Picasso(2)

Hằng ngày chúng ta vẫn thường nghe và nói: cảm quan đời sống, cảm quan đô thị, cảm quan tôn giáo, cảm quan nghệ thuật, cảm quan hậu hiện đại,... nghĩa là từ cảm quan trở thành cụm từ cửa miệng nhưng để hiểu rõ nội hàm thuật ngữ thì không đơn giản.

Về phương diện ngôn ngữ học, nhiều nhà nghiên cứu thông thạo Hán học như Phương Lựu, Trần Đình Sử, Phạm Tú Châu cho chúng tôi biết trong ngôn ngữ Trung Quốc không có từ “Cảm quan”, nhưng từ ấy lại không xa lạ với tiếng Việt, và nội hàm của nó biến đổi nghĩa cùng với thời gian. Theo Từ điển tiếng Việt, Hoàng Phê viết rất ngắn gọn, “Cảm quan: giác quan”(3); “Giác quan: bộ phận của cơ thể chuyên tiếp nhận những kích thích từ bên ngoài (cơ quan để cảm giác)”(4). Theo cách diễn đạt này, nghĩa của từ “Cảm quan” thiên về vai trò của yếu tố khách quan, lý trí, nhấn mạnh sự tác động của bên ngoài đến quá trình nhận thức. Nhưng bản ngã giữ vai trò gì trong việc kinh qua những kinh nghiệm ấy? Dường như ký ức của chủng loại, của cá nhân không tham dự vào sự vận động, trưởng thành của vũ trụ nội tại?

“Cảm quan” có những từ tương đương trong tiếng Pháp (Sens), tiếng Anh (Sense, Feeling); ở đây, chúng tôi nghiêng về dùng từ Feeling cho nhất quán. Theo Bách khoa toàn thư Britannica (Encyclopedia Britannica): “Feeling: trong tâm lý học là sự thu nhận các sự kiện bên trong cơ thể, liên quan gần gũi với cảm xúc…”(5). Đến đây thì định nghĩa Feeling không khác với định nghĩa Cảm quan trong Từ điển tiếng Việt đã nói trên kia. Nhưng Bách khoa toàn thư Britan- nica còn viết tiếp: “Thuật ngữ ấy (Feeling) nhanh chóng mang nghĩa, khái quát hơn, là thu nhận qua những giác quan chẳng quy chiếu vào bất cứ giác quan đặc biệt nào…”. Từ “Cảm quan” trong tiếng Việt cũng đã trải qua chặng đường biến đổi nội hàm như vậy. Có thể nói nó (cảm quan) là tổng hợp giác, là cầu nối giữa ý thức với tiềm thức và vô thức, giữa bản năng và lý trí.

Trong thực tiễn sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt, từ “Cảm quan” cũng đã được dùng khá phổ biến theo nghĩa tương tự, đó là loại nhận thức đặc biệt, nhận thức không phải bằng suy lý, lôgic, bằng khái niệm mà bằng cảm giác, cảm tính hiểu theo nghĩa rất rộng, có tính trực cảm, trực giác, được phát tiết từ vô thức. Như Phạm Vĩnh Cư chuyển ngữ cụm từ tiếng Pháp “sens esthétique” thành “cảm quan thẩm mỹ” trong bài nghiên cứu dài về biểu tượng của Jean Chevalier mở đầu công trình đồ sộ Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới(6); Nguyễn Thị Lệ Hà cách đây hai mươi năm bảo vệ thành công luận án tiến sĩ “Cảm quan tương ứng trong Những bông hoa ác của Baudelaire” (1995); Phan Thị Thu Hiền viết bài “Cảm quan Phật giáo trong thế giới nghệ thuật của Cánh đồng bất tận”; Nhà văn Chu Lai có bài “Viết bằng cảm quan người lính”; “Nguyễn Du và Thăng Long xem xét từ cảm quan thẩm mỹ” là bài nghiên cứu của Nguyễn Huệ Chi v.v.

Từ “Cảm quan” (Feeling) cũng được sử dụng khá nhiều ở các lĩnh vực triết học, tâm lý học, lý thuyết thẩm mỹ... A. Einstein (1879 - 1955) cho rằng: “Cảm quan tôn giáo mênh mông là lý lẽ bền vững nhất và cao quý nhất cho việc ng- hiên cứu khoa học(7)”. Danh ngôn ấy không chỉ cho ta thấy nguyên lý cuộc sống của vĩ nhân ở mối quan hệ giữa tín ngưỡng và khoa học mà còn nhấn mạnh cảm quan tôn giáo là bí ẩn nhưng có thật, cảm quan thuộc về cái vũ trụ tổng thể. Cách hiểu về cảm quan như vậy của Einstein đồng thuận với quan điểm của nhà giáo dục học Mỹ, Grant H. Palmer (sinh năm 1940), tác giả công trình Cảm quan tôn giáo và Chân lý (Religious Feeling and Truth). Đấy cũng là nội hàm của từ “Cảm quan” ở nhan đề công trình Tôn giáo như là Cảm quan (bản tiếng Anh dịch là “Religion as Feeling”) của nhà thần học Đức, F. Schleiermachen (1768 - 1834).

Như vậy, cảm quan là cách nhìn nhận, đánh giá mang tính chất tổng quan, toàn cục, nó tiên báo suy nghĩ hay lý luận về một vấn đề đang được nói tới, mà vấn đề đó thiên về lĩnh vực tinh thần (phi vật chất), phi hình thức. Đồng thời, bản thân thuật ngữ mang nội hàm nhạy bén, năng động, luôn dịch chuyển theo thời gian, theo tôn giáo, theo khu vực, theo bản sắc riêng của từng chủ thể nhận thức.

Về phương diện triết học, cảm quan như là chỉ dẫn cho câu đố triết học tự thời cổ đại. Xa xưa, người Hy Lạp đã tự vấn: thế giới được tạo bởi cái gì, bằng cách nào và làm sao để biết được điều đó? Thông qua suy xét và thực nghiệm, họ đã đạt tới một nền tảng hiểu biết, mà trên đó toàn bộ hiện thực được khám phá. Hai đường ray xe lửa dẫn đoàn tàu triết học của nhân loại là chủ nghĩa duy lý và chủ nghĩa kinh nghiệm. Nếu chủ nghĩa duy lý xem “tiêu chuẩn về chân lý không có tính giác quan mà có tính trí tuệ và suy diễn lôgic” và cực đoan rằng, “lý tính là con đường duy nhất tới tri thức”, thì ngược lại, chủ nghĩa kinh nghiệm tuyệt đối vai trò của sự trải nghiệm. Theo họ, bản chất sự vật là do trực giác mang lại, vì vậy triết gia cổ đại Hy Lạp, Socrate (469 - 399 tr.CN), khuyên “hãy tự biết mình”, còn nhà thần học Augustine (345 - 430) cho rằng, chân lý nằm trong nội tâm con người, nhà triết học Ireland, G. Berkeley (1685 - 1753), và D. Hume (1711 - 1776), triết gia xứ Scotland, xem “cảm giác là nguồn gốc tuyệt đối của mọi nhận thức”(8), còn nhà văn Pháp, Luc de Vauvenargues (1715 - 1747), tuyên xưng “cảm xúc dạy cho nhân loại biết lý luận”. Khi chủ nghĩa lãng mạn lên ngôi, coi trọng đời sống tinh thần cá nhân, Jean Jacques Rousseau (1712 - 1778) đã khẳng định: “Tồn tại đối với chúng ta, đó là cảm nhận; sự cảm nhận của chúng ta rõ ràng là có trước sự hiểu biết và chúng ta có cảm xúc trước khi có ý tưởng”(9)... Như một hành động tổng kết lại lịch sử con đường nhận thức của nhân loại, với quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, xem nhận thức là quá trình con người phản ánh thế giới, V.I. Lenin (1870 - 1924) khẳng định “hoạt động nhận thức của con người đi từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn”. Tuy nhiên, trong kỷ nguyên này, nhận thức không chỉ là phản ánh mà còn sáng tạo thế giới.

Từ giác độ tâm lý học, cảm quan là một cách để xem xét sự nhạy cảm chung của cơ thể. Nó cũng có một trường độ nghĩa: a/ thể hiện một sự kiện tinh thần về tư tưởng (nhận thức), b/ cảm giác (ý thức đặc trưng về một sự kiện) và c/ ý chí (có thể có ý thức hoặc vô thức). Như vậy, cảm quan trực tiếp tham gia vào quá trình tiếp nhận/sáng tạo kiến thức và sự hiểu biết bằng nhiều cách khác nhau: ý thức và vô thức, duy lý và duy cảm, khách quan và chủ quan... Luận điểm này cũng được các nhà tâm lý học Gestalt thừa nhận.

Trong công trình Các loại hình tâm lý (Psychologische types), nhà tâm lý học Thụy Sỹ, Carl Jung (1875 - 1961) sắp xếp và phân loại các hoạt động “có lý trí” của ý nghĩ thành hai dạng: tư duy (Thinking) và cảm quan (Feeling). Theo các nhà triết học duy lý, cảm quan là thiếu chặt chẽ và rõ ràng, nhưng với Jung, đó là một trong những hoạt động có lý trí nghiêm chỉnh của trí óc. Cảm quan, theo Jung, giúp chúng ta đánh giá giá trị vốn có của sự vật. Cảm quan giúp ta nhìn nhận thế giới một cách tổng thể, trọn vẹn thay vì trừu xuất, phân tách thành những bộ phận riêng lẻ. Nếu tư duy không cân bằng được với cảm quan thì nó sẽ phiến diện và giáo điều, ngược lại cảm xúc mà không được kiểm soát bởi tư duy thì sẽ là mộng tưởng.

*

Leonard Shlain(10) trong công trình nổi tiếng Nghệ thuật và Vật lý đã cho thấy mối tương quan đáng kinh ngạc: Những cái nhìn tương đồng về không gian, thời gian và ánh sáng giữa các lĩnh vực tưởng như chẳng bao giờ gặp gỡ, Nghệ thuật thể hiện thế giới nhìn thấy được còn, Vật lý giải thích sự vận hành không nhìn thấy được của thế giới đó. Cho đến nay, con người đã có thể nghiên cứu hạt nguyên tử và không gian liên hành tinh, nhưng nghệ thuật vẫn là một bí ẩn, chúng ta biết rất ít về bản chất của nghệ thuật, về chức năng của nó và nguyên nhân tâm lý thúc đẩy sự sáng tạo, sự sáng tạo diễn ra như thế nào… như than thở của Ayn Rand(11). Trong bài viết này, chúng tôi muốn nêu lên một quan niệm về cách Nghệ thuật thể hiện thế giới được nhìn thấy.

Khám phá mỗi tác phẩm nghệ thuật, hẳn ai trong chúng ta cũng muốn biết cách quan niệm về cấu trúc của tác phẩm ấy và nó đã được hình thành ra sao, như ý kiến nhà văn Pháp, A. Gide(12) trong tiểu thuyết Bọn làm bạc giả (Les Faux-monnayeurs, 1926) khi ông cho rằng, “giá mà chúng ta biết được lịch sử của tác phẩm, của sự thai nghén tác phẩm như thế nào thì thú vị biết bao… hay hơn bản thân tác phẩm nhiều”(13). Song không phải chúng ta luôn biết công việc bếp núc của nhà văn, biết lịch sử sáng tạo tác phẩm, và vì vậy, chỉ còn cách duy nhất là đi thẳng vào văn bản và xem xét tác phẩm đã tác động tới chúng ta như thế nào, bằng cách nào.

Từ phương diện nghệ thuật, “Cảm quan” như một thuật ngữ mỹ học được hình thành trên các cơ sở ngôn ngữ học, triết học và tâm lý học trên đây. Trong Từ điển các thuật ngữ văn học (The Routledge Dictionary of Literary Terms), “Feeling được hiểu là bằng cách nào một tác phẩm nghệ thuật (văn học) được tạo ra và nó ảnh hưởng đến người đọc như thế nào, bằng cách nào”(14). Nghệ thuật là lĩnh vực hoạt động sáng tạo trong đó cảm quan hữu cơ đóng vai kiểm soát mạnh, hay nói cách khác, mỗi tác phẩm nghệ thuật như một kiểu biểu tượng hóa ý tưởng về cảm quan. Khi Eliseo Vivas (1901 - 1993), triết gia, nhà phê bình văn học người Mỹ gốc Venezuela, trong Sáng tạo và khám phá (Creation and Discovery) cho rằng văn học là giai đoạn trước trong trật tự lôgic để có tất cả các kiến thức, cấu thành văn hóa là ông khẳng định tuyệt đối vai trò của cảm quan trong hoạt động nhận thức, sáng tạo của con người. Phê bình gia Anh, I.A. Richards (1893 - 1979) trong công trình Các nguyên tắc Phê bình Văn học (Principles of Literary Criticism), nhận định cảm quan có vai trò rất lớn trong việc hiểu tác phẩm, và người đọc tốt là người có khả năng đọc đặc biệt tốt các dấu hiệu mà người nghệ sĩ đã ấn dấu. Trong lý thuyết thẩm mỹ, cảm quan cũng được được nữ triết gia Mỹ, S. Langer (1895 - 1985) đặc biệt quan tâm trong các tác phẩm: Chìa khóa mới để giải mã Triết học (Philosophy in a New Key), Cảm quan và Hình thức (Feeling and Form), Tâm trí: một nghiên cứu về cảm quan con người (Mind: An Essay on Human Feeling).

Trong công trình Feeling and Form: A Theory of Art, Langer đã trả lời câu hỏi cơ bản về nghệ thuật: Sáng tạo là cái gì? (What is created?), là hình thức có ý nghĩa (significant form), và bà đi đến định nghĩa, nghệ thuật như là sự sáng tạo ra những hình thức mang tính biểu tượng cho cảm quan của con người (the creation of forms symbolic of human feeling), nó tạo ra cho chúng ta nhận thức thẩm mỹ, thông qua ý thức hoặc tưởng tượng. Bà xem chủ nghĩa tượng trưng (Symbolism) là “chìa khóa mới” để hiểu biết cơ chế tâm trí con người thể hiện nhu cầu nguyên sơ (primal need) trong việc thể hiện bản thân. Một tác phẩm nghệ thuật là một biểu tượng có tính thể hiện (presentational symbol) cảm quan của con người. “Cảm quan” (Feeling) được sử dụng, ở đây, theo nghĩa rất rộng, như gần đồng nghĩa với “kinh nghiệm” (experience) hoặc “nhận thức” (awareness).

Mind: An Essay on Human Feeling là đỉnh cao nỗ lực của Langer trong việc thiết lập một nền tảng triết học và khoa học của kinh nghiệm thẩm mỹ. Nếu Aristotle (384 - 322 tr. CN) cho rằng, con người là động vật duy nhất có lý trí (rational animal), thì Langer nói thêm rằng: động vật có những chức năng tâm thần (mental functions) nhưng con người còn có tâm trí (mind), nhờ cảm quan mà con người khác động vật, có thể sáng tạo nghệ thuật. Các loại hình nghệ thuật khác nhau nhưng vật liệu cơ bản đầu tiên là cảm quan; nghệ thuật là hoạt động tạo ra các hình thức biểu tượng của cảm quan con người, nghệ thuật đồng dạng với các hình thức năng động, trực tiếp của đời sống tình cảm, tinh thần; tác phẩm nghệ thuật là sự dự báo tương lai từ cảm quan về cuộc sống hiện tại.

Nếu trong cuộc sống thường nhật, cảm quan in dấu ấn cá nhân trong cách nhìn nhận, cách nhận thức sự vật, hiện tượng thì trong nghệ thuật, cảm quan như là thuộc tính đặc trưng của hình ảnh nội dung được ẩn giấu (và vén mở) trong ẩn dụ, biểu tượng, huyền thoại. Trong toàn bộ cấu trúc tác phẩm nghệ thuật - trường nguyên mẫu ấy tồn tại như một trật tự ẩn, chỉ có một số khía cạnh nhất định của trật tự ấy lộ diện hoặc mỗi khía cạnh lại lộ diện ở mỗi thời điểm nhất định như mỗi chúng ta cảm nhận khác nhau trước nụ cười bí ẩn của nàng Mona Lisa, hay như W. Iser (1926 - 2007) quan niệm về thái độ của độc giả đứng trước một văn bản nghệ thuật cũng như khi đứng trước một bầu trời đêm: tùy theo sự liên tưởng của người quan sát mà cùng một số những ngôi sao, nhưng người này thì hình dung đó là con gấu, người nọ hình dung đó là cái thìa… Như vậy, tùy vào khả năng, trình độ, giới tính,… của người tiếp nhận và đặc biệt là đặc điểm thời đại, nền văn hóa mà ý nghĩa tác phẩm luôn là nhân tố bí ẩn vẫy gọi chúng ta khám phá. Và khám phá cũng là kiến tạo, kiến tạo cả những điều các nhà văn đã sáng tạo một cách không tự giác, một cách vô thức!

Tác phẩm Biến dạng, Lâu đài, Vụ án của F. Kafka(15) như là những biểu tượng về sự tha hóa của thân phận con người và những mê cung thiết chế, mà mỗi độc giả sẽ vẫy vùng thoát thân trong ác mộng, phi lý. Truyện kể về làng Macondo của G. Márquez(16) không chỉ là câu chuyện về đất nước Colombia, hay khu vực châu Mỹ Latin mà là huyền thoại Trăm năm cô đơn của loài người đã được Thánh Kinh ghi lại từ hàng ngàn năm trước. Hành trình đi tìm Linh sơn của Cao Hành Kiện(17) là hành hương về với suối nguồn an lạc, tự do tuyệt đối của cõi nội giới vô biên mà cuộc hành hương ấy, hẳn ở mỗi người đọc không ai giống ai, nên Núi thần là vô hình mà hiện hữu…

Câu chuyện ngụ ngôn xa xưa được lưu truyền ở cả phương Đông lẫn phương Tây Thầy bói xem voi như một ẩn dụ về giới hạn nhận thức của con người, và cũng từ đó dấy lên hoài vọng muôn đời: làm thế nào để nhận thức được cái toàn thể, để biết được bí mật của vũ trụ và sự sống. Với tư tưởng nhất nguyên, chúng tôi xem cảm quan trong sự thống nhất giữa các mặt chủ quan và khách quan, lý tính và cảm tính, ý thức và vô thức... để có thể có được một nhãn lực tổng hợp. Có lẽ ngôn ngữ bất toàn và bất định (thư bất tận ngôn, ngôn bất tận ý) nên con người dùng đến phép tượng trưng (biểu tượng) hoặc phép ngụ ngôn (ẩn dụ, huyền thoại) để biểu thị những điều chỉ có thể cảm được mà không thể nói ra. Tác phẩm nghệ thuật thông qua biểu tượng, huyền thoại cho ta thấy một sự hiểu biết sâu sắc. Đó là cái hiểu biết nhờ bên ngoài khêu gợi (khách quan) mà bên trong hưởng ứng (chủ quan), một sự cộng thông đạt đạo “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” (Kinh Dịch). Lắm lúc sự khêu gợi không được chủ thể ý thức nhưng sự cộng hưởng vẫn hiển lộ trong tâm tưởng của khách thể. Đó cũng là mặt bên kia của biểu tượng, tồn tại trong một trật tự ẩn.

Những thành tựu rực rỡ của vật lý hiện đại đã chỉ ra rằng: thế giới vật chất trong vật lý lượng tử chỉ là những khả năng, và ý thức là nền tảng của thực tại, chính nhờ có ý thức, thông qua sự chuyển đổi từ khả năng thành hiện thực, nó tạo ra những gì chúng ta thấy được biểu lộ. Điều này hiện thực hóa một danh ngôn của Piasso, rằng ông vẽ như ông nghĩ, và qua đó, tạo tác, biểu lộ thực tại.

Khởi đi từ dự cảm mẫn tiệp của người nghệ sĩ, tác phẩm nghệ thuật đến với người đọc bằng cảm quan tiếp nhận của (thời đại) độc giả, hành trình của nghệ trở thành sự giao thoa của những dòng cảm xúc và tư tưởng. Những nghệ sĩ vĩ đại là những người tiên tri của thời đại, như A. Einstein đã thừa nhận F. Dostoievski(18) là người đầu tiên nói đến chiều thứ tư không-thời gian, hay với tiểu thuyết viễn tưởng kinh điển Hai vạn dặm dưới đáy biển, Jules Verne(19) đã đưa ra những phác thảo đầu tiên về đại dương mênh mông và bí ẩn, hoặc gần đây nhất, giới khoa học đã chỉ ra, có thể, Leonardo Da Vinci(20) đã “âm thầm tiết lộ bí mật lịch sử về người ngoài hành tinh” trong bức họa huyền thoại Mona Lisa… Nhưng không chỉ tiên tri về khoa học mà trước hết là về hiện tồn đời sống con người. Đáp lại sự nhạy bén của nhà văn là sự tinh tế của độc giả đã nuôi dưỡng những mầm phôi sáng tạo trở thành tác phẩm nghệ thuật trong sinh quyển hiện đại.

N.T.T  
(SH319/09-15)


---------------
1. Tác phẩm nghệ thuật là hình thức biểu hiện của cảm quan con người được tạo ra cho nhận thức thẩm mỹ của chúng ta thông qua cảm quan hoặc trí tưởng tượng. Susanne Langer Katherina (1895 - 1985), một trong những nữ triết gia, người Mỹ, đầu tiên. Triết học của Langer nghiên cứu về nghệ thuật và sự sáng tạo nghệ thuật, về nhận thức và nhận thức thẩm mỹ của con người, với những tác phẩm chính: Philosophy in a New Key: A Study in the Symbolism of Reason, Rite, and Art (1942), Feeling and Form: A Theory of Art (1953), Mind: An Essay on Human Feeling (1967 - 1982),…

2. Tôi vẽ như tôi nghĩ, không như tôi thấy, Pablo Picasso (1881 - 1973), minh chủ của hội họa lập thể.

3. Hoàng Phê (1988), Từ điển tiếngViệt (chủ biên), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.194.

4. Hoàng Phê, Sđd, tr.408.

5. Encyclopedia Britanica, http://www.britannica.com.

6. Chevalier J., Gheerbrant A. (Phạm Vĩnh Cư chủ biên, dịch, 2002) Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, Nxb. Đà Nẵng, Đà Nẵng, tr. XXXV.

7. Albert Einstein, Religion and Science, in the New York Times Magazine on November 9, 1930 pp 1-4.

8. Nguyễn Hữu Vui (đồng chủ biên, 1998), Lịch sử triết học (tập 2), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.114.

9. Dẫn theo Hoàng Tố Mai, Di sản văn học lãng mạn, Tạp chí Nghiên cứu văn học 11/2014.

10. Leonard Shlain (1937 - 2009), bác sĩ phẫu thuật nội soi người Mỹ, và là một học giả, nhà phát minh. Với nhiều công trình, nổi tiếng nhất là Art & Physics: Parallel Visions in Space, Time, and Light (1991).

11. Ayn Rand (1905 - 1982) nữ tiểu thuyết gia, lý luận & triết gia, mang quốc tịch Mỹ, sinh tại Nga, tác giả tiểu thuyết nổi tiếng Suối nguồn (The Fountainhead, 1943).

12. A. Gide (1869 - 1951) nhà văn Pháp, đạt giải Nobel Văn học năm 1947.

13. Phùng Văn Tửu (2002), Tiểu thuyết Pháp hiện đại, những tìm tòi đổi mới, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.154.

14. Peter Childs, Roger Fowler (2006), The Routledge Dictionary of Literary Terms, Routledge, London & NewYork, tr.85.

15. Franz Kafka (1883 - 1924), nhà văn Áo, gốc Do Thái, viết văn bằng tiếng Đức. Ông được xem là một trong những nhà văn có ảnh hưởng lớn nhất thế kỷ XX.

16. Gabriel García Márquez (1927 - 2014) nhà văn nổi tiếng người Colombia, đạt giải Nobel Văn học năm 1982.

17. Cao Hành Kiện (1940) nhà văn Pháp, gốc Hoa, đạt giải Nobel văn học năm 2000.

18. F. Dostoievski (1821 - 1881) nhà văn nổi tiếng người Nga, trong tác phẩm Anh em nhà Karamazov, xuất bản năm 1880, nhà văn đã nói đến chiều thứ tư không thời gian và hình học phi Euclid.

19. Jules Verne (1828 - 1905) nhà văn lớn, người Pháp.

20. Leonardo Da Vinci (1452 - 1519), thiên tài toàn năng người Ý.
 





 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • ĐỖ LAI THUÝPhê bình văn học Việt Nam, sau sự khởi nguồn của Thiếu Sơn với Phê bình và Cảo luận (1933) chia thành hai ngả. Một xuất phát từ Phê bình để trở thành lối phê bình chủ quan ấn tượng với Hoài Thanh và Thi nhân Việt Nam (1942). Lối kia bắt nguồn từ Cảo luận tạo nên phê bình khách quan khoa học với Vũ Ngọc Phan của Nhà văn hiện đại (1942), Trần Thanh Mai của Hàn Mặc Tử (1941), Trương Tửu của Nguyễn Du và Truyện Kiều (1942), Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (1945). Sự phân chia này, dĩ nhiên, không phải là hành chính, mà là khoa học, tức sự phân giới dựa trên những yếu tố chủ đạo, nên không phải là không thể vượt biên. Bởi, mọi biên giới đều mơ hồ hơn ta tưởng, nhất là ở khoa học văn chương.

  • LTS: Marcel Reich-Ranicki, sinh năm 1920, người ở Đức được mệnh danh là "Giáo hoàng văn học", là nhà phê bình văn học đương đại quan trọng nhất của CHLB Đức. "Một lời biện hộ cho thơ" là bài thuyết trình đọc vào ngày 30.11.1980 nhân dịp ra mắt Tập 5 của "Tuyển thơ Frankfurt" trong khuôn khổ chuyên mục thơ của nhật báo "Frankfurter Allgemeine Zeitung" (FAZ) mà tác giả là chủ biên phần văn học từ 1973 đến 1988.Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài "Một lời biện hộ cho thơ" của ông sau đây do dịch giả Trương Hồng Quang thực hiện.

  • TRẦN HUYỀN SÂMGeorge Sand (1804-1876) là một gương mặt độc đáo trên văn đàn Pháp thế kỷ XIX. Cùng thời với những cây bút nổi tiếng như: A.Lamartine, V.Hugo, A.Vigny, A.Musset... nữ sĩ vẫn tạo cho mình một tầm vóc riêng không chìm khuất. George Sand bước vào thế giới nghệ thuật bằng một thái độ tự tin và một khát vọng sáng tạo mãnh liệt. Với hơn hai mươi cuốn tiểu thuyết đồ sộ, G.Sand đã trở thành một tên tuổi lừng danh ngay từ đương thời. Dĩ nhiên, bà lừng danh còn bởi nhiều mối tình bất tử, trong đó có nhà thơ Pháp nổi tiếng A.Musset và nhạc sĩ thiên tài Chopin người Ba Lan.

  • PHẠM QUANG TRUNGCó lần, dăm ba người có thiên hướng lý luận chúng tôi gặp nhau, một câu hỏi có thể nói là quan thiết được nêu ra: trong quan niệm văn chương, e ngại nhất là thiên hướng nào? Rất mừng là ý kiến khá thống nhất, tuy phải trải qua tranh biện, không đến nỗi quyết liệt, cũng không phải hoàn toàn xuôi chiều hẳn. Có lẽ thế mới hay!

  • NGUYỄN HỮU HỒNG MINH1- "Thơ trẻ- Những giá trị mới" là một "mưu mô" của nhà phê bình trẻ Nguyễn Thanh Sơn và nhóm "Văn nghệ mới" (bao gồm Nguyễn Hữu Hồng Minh, Văn Cầm Hải, Phan Huyền Thư, Ly Hoàng Ly, Nguyễn Vĩnh Tiến, Dạ Thảo Phương... và một số người khác) dự tính tập hợp, tuyển chọn 1 tuyển thơ của 10 (hay nhiều hơn) tác giả trẻ từ 30 tuổi trở xuống, xuất hiện trong vòng 3 năm cuối cùng của thế kỉ để trình làng giới thiệu chân dung thế hệ mình.

  • NGUYỄN HOÀN Trịnh Công Sơn là một hiện tượng độc đáo của âm nhạc và văn hoá Việt Nam được ái mộ không chỉ ở trong nước mà cả ở nước ngoài. Vì thế mà từ khi ông qua đời đến nay đã có trên chục đầu sách viết về ông, một số lượng hiếm thấy đối với các nhạc sĩ khác. Gần đây có cuốn “Trịnh Công Sơn vết chân dã tràng” của Ban Mai do Nhà xuất bản Lao Động, Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây xuất bản, Hà Nội, 2008. Với niềm ngưỡng mộ tài hoa và nhân cách nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, tôi đã hăm hở tìm đọc cuốn sách mới này nhưng tiếc thay, chưa kịp trọn nỗi mừng đã phải thất vọng về những trang viết đánh giá đầy sai lệch và thiếu sót, phiến diện về Trịnh Công Sơn và chiến tranh Việt Nam.

  • HOÀNG QUỐC HẢIThơ Lý - Trần có mạch nguồn từ Đinh - Lê, nếu không muốn nói trước nữa. Rất tiếc, nguồn tư liệu còn lại cho chúng ta khảo cứu quá nghèo nàn.Nghèo nàn, nhưng cũng đủ tạm cho ta soi chiếu lại tư tưởng của tổ tiên ta từ cả ngàn năm trước.

  • NGUYỄN VĂN THUẤN          (Nhóm nghiên cứu - lý luận phê bình trẻ)Thời gian gần đây, tại Việt , các tác phẩm của nhà văn Nhật Bản H.Murakami thường xuyên được dịch và xuất bản. Là một giọng nói hấp dẫn trên văn đàn thế giới, sáng tác của ông thu hút đông đảo công chúng và dành được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, phê bình. Một trong những tiểu thuyết làm nên danh tiếng của ông là Rừng Nauy.

  • PHAN TÂMQuê hương Phan Đăng Lưu, xã Hoa Thành, huyện Yên Thành, cách Kim Liên, Nam Đàn, quê hương Hồ Chí Minh khoảng 60 km.Hai nhân cách lớn của đất Nghệ An. Không hẹn mà gặp, xuất phát từ lương tri dân tộc, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, đến chủ nghĩa Mac - Lê nin, thành hai chiến sĩ cộng sản Việt Nam nổi tiếng.

  • THÁI DOÃN HIỂUNhà thơ Võ Văn Trực thuộc loại tài thì vừa phải nhưng tình thì rất lớn. Chính cái chân tình đó đã giúp anh bù đắp được vào năng lực còn hạn chế và mong manh của mình, vươn lên đạt được những thành tựu mới đóng góp cho kho tàng thi ca hiện đại của dân tộc 4 bài thơ xuất sắc: “Chị, Vĩnh viễn từ nay, Thu về một nửa và Nghĩa địa làng, người ta sẽ còn đọc mãi.

  • HÀ  ÁNH MINHBài thứ nhất, Một cuộc đời "Ngậm ngải tìm trầm" của Vương Trí Nhàn, đăng trên tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam số Xuân Canh Thìn năm 2000, và bài thứ hai "Sư phụ Thanh Tịnh làm báo tết" của Ngô Vĩnh Bình, đăng trên báo Văn Nghệ, số Tết cũng năm Canh Thìn 2000. Bài đầu tiên viết dài, giọng văn trau chuốt điệu nghệ. Bài sau ngắn, mộc mạc.

  • LÊ THỊ HƯỜNGDẫu mượn hình thức của thể kí, dẫu tìm đến vần điệu của thơ, điểm nhất quán trong sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường là một cái tôi say đắm thiên nhiên. Đằng sau những tài hoa câu chữ là một cái tôi đa cảm - quá chừng là đa cảm - luôn dành cho cỏ dại những tình cảm lớn lao.  

  • BỬU NAM1. Nếu văn xuôi hư cấu (đặc biệt là tiểu thuyết) chiếm vị trí hàng đầu trong bức tranh thể loại của văn học Mỹ - La tinh nửa sau thế kỷ XX, thì thơ ca của lục địa này ở cùng thời gian cũng phát triển phong phú và rực rỡ không kém, nó tiếp tục đà cách tân và những tìm tòi đổi mới của những nhà thơ lớn ở những năm 30 - 40.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP1. Khi chạm vào cơn lốc và những điệu rock thơ mang tên Vi Thuỳ Linh, bất chợt tôi nhớ đến câu thơ dịu dàng và sâu thẳm của Paul Eluard: Trái đất màu xanh như một quả cam. Với P. Eluard, tình yêu là một thế giới tinh khiết, rạng rỡ và ngọt ngào: Đến mức tưởng em khỏa thân trước mặt. Còn Vi Thuỳ Linh, nếu ai hỏi thế giới màu gì, tôi đồ rằng nàng Vi sẽ trả lời tắp lự: Màu yêu.

  • HÀ VĂN LƯỠNG1. Cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của nhân dân Xô Viết là một bản anh hùng ca bất tử của dân tộc Nga trong thế kỷ XX (1941-1945). Nó mãi mãi đi vào lịch sử vẻ vang và oanh liệt, không chỉ của đất nước Xô Viết mà còn cả với nhân loại tiến bộ yêu chuộng hòa bình trên thế giới, khẳng định bản chất tốt đẹp và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của con ngưòi Xô Viết.

  • LƯƠNG THỰC THULTS: Lương Thực Thu, sinh năm 1903 tại Bắc Kinh, thời nhỏ học ở trường Thanh Hoa. Năm 1923 du học tại Mỹ. Năm 1926 về nước, lần lượt dạy học ở trường Đại học Đông Nam, Đại học Thanh Đảo, Đại học Bắc Kinh, và Đại học Sư phạm Bắc Kinh. Năm 1949 sang ở Đài Loan, chủ yếu giảng dạy ở Đại học Sư phạm Đài Loan. Năm 1966 nghỉ hưu, năm 1987 ốm chết tại Đài Bắc.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG   (Đọc “Lý luận và văn học”, NXB Trẻ 2005 của GS.TS Lê Ngọc Trà)Ra mắt bạn đọc năm 1990, năm 1991, cuốn sách “Lý luận và văn học” của Giáo sư - Tiến sĩ Lê Ngọc Trà được trao giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. 15 năm qua, những tưởng một số vấn đề về lý luận văn học mà cuốn sách đề cập đã không còn mới, đã “lạc hậu” so với tiến trình phát triển của văn học. Nhưng không, khi đọc lại cuốn sách được nhà xuất bản Trẻ tái bản lần thứ nhất năm 2005, những vấn đề mà GS.TS Lê Ngọc Trà đề cập vẫn còn nóng hổi và giữ nguyên tính thời sự của nó.

  • TRẦN ĐÌNH SỬLí luận văn học Việt Nam thế kỉ XX đã trải qua ba lần thay đổi hệ hình tư duy. Lần thứ nhất diễn ra vào những năm 1932 đến 1945 với việc hình thành quan niệm văn học biểu hiện con người, xã hội, lấy thẩm mĩ làm nguyên tắc, chống lại quan niệm văn học thời trung đại lấy tải đạo, giáo huấn, học thuật làm chính tông, mở ra một thời đại mới trong văn học dân tộc.

  • HỒ THẾ HÀĐà Linh - Cây bút truyện ngắn quen thuộc của bạn đọc cả nước, đặc biệt, của Đà Nẵng với các tác phẩm Giấc mơ của dòng sông (1998), Nàng Kim Chi sáu ngón (1992),Truyện của Người (1992) và gần đây nhất là Vĩnh biệt cây Vông Đồng (1997). Bên cạnh ấy, Đà Linh còn viết biên khảo văn hoá, địa chí và biên dịch.

  • NGÔ MINHBữa nay, người làm thơ đông không nhớ hết. Cả nước ta mỗi năm có tới gần ngàn tập thơ được xuất bản. Mỗi ngày trên hàng trăm tờ báo Trung ương, địa phương đều có in thơ. Nhưng, tôi đọc thấy đa phần thơ ta cứ na ná giống nhau, vần vè dễ dãi, rậm lời mà thiếu ý.