Cảm nhận và dư âm sau Hội thảo khoa học: “Phan Khôi và những đóng góp trên lĩnh vực văn hóa dân tộc”

08:51 18/11/2014


LÊ QUANG THÁI

Phan Khôi (người đội nón) chụp chung với Tố Hữu (bìa phải), Văn Cao (bìa trái) và Tú Mỡ tại Việt Bắc - Ảnh: thanhnien.com.vn

Nội hàm của Hội thảo lần này vượt xa Tọa đàm về nhà văn, nhà báo Phan Khôi vào năm 2007; đã hiển lộ một cách trung thực, để lại một mốc son đầy ấn tượng trong sáng qua 50 tham luận của các bậc thức giả, những nhà nghiên cứu chuyên sâu về học giả đa tài Phan Khôi (1887 - 1959).

Ban tổ chức Hội thảo đã tuyển chọn 9 đề tài tiêu biểu mà các tác giả đã dày công sưu tầm, phân tích và luận giải thật phân minh để tự thân người viết tham luận trình bày cái cốt lõi tinh hoa của nội dung từng tiểu phẩm giá trị trước quý vị nhân sĩ, trí thức có uy tín lớn trong xã hội và có trình độ nhận thức cùng phản biện thấu tình, đạt lý. Cả Hội trường trở nên sinh động và lóe sáng nhờ những ý kiến đóng góp bổ sung mang tính cách đính chính tại Trung tâm Hội nghị tỉnh Quảng Nam, vào ngày 06/10/2014.

Quang cảnh Hội thảo - Ảnh: baotintuc


Số lượng khách mời và đại biểu chọn lọc ở trong nước được phân bố cân phân ở khắp 3 miền Bắc - Nam - Trung mà chủ lực là ở ba tỉnh thành: Thủ đô Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và Cố đô Huế. Tỉnh chủ nhà đã mời đại biểu các ngành liên quan của 14 huyện thị, và còn được đặc cách mở rộng đến các trường Trung học cơ sở của tỉnh Quảng Nam. Thành thử tổng số lượng người tham dự tại Hội thảo trội vượt xa con số 200 người.

Hội thảo khoa học đạt thành tựu lớn, đầy hứa hẹn, đáp ứng lòng mong ước của mọi người, đặc biệt là con cháu nội ngoại, dâu rể của họ tộc Phan Khôi thấp thỏm chờ đợi từ nhiều năm qua.

Nhà báo Hứa Xuyên Hình đã viết bài “Phan Khôi, người đa tài” được đăng tải trên báo Thanh Niên số 280 (6863) ra mắt bạn đọc vào sáng ngày hôm sau, 7/10/2014. Cùng tác nghiệp với ký giả vào ngày khai mạc, giới báo chí và truyền thông khu vực miền Trung và Tây Nguyên, báo đài địa phương đã lấy tin và đưa tin kịp thời một cách sốt dẻo trên các báo khác mà tôi chưa có dịp tiếp cận.

Nội dung bài đăng trên báo Thanh Niên có đoạn viết ở ô chữ khung hình chữ nhật đã in nổi bằng chữ in đậm nét ở trang 14 như sau: “Ông Nguyễn Chín, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Nam, nhận xét hội thảo lần này đã góp phần đánh giá về những đóng góp của Phan Khôi trên lĩnh vực văn hóa dân tộc, giúp có thêm nhiều tư liệu quý và đánh giá khoa học có giá trị cao, toàn diện...”

Có sau thì phải liền nghĩ đến những ngày trước 6/10/2014; ở chuyên mục Nhân vật & Sự kiện của Tạp chí Xưa & Nay - cơ quan Hội Khoa học lịch sử Việt Nam số 451 tháng 9/2014 đã đăng tải 3 bài viết giá trị liên quan đến nội dung Hội thảo về Phan Khôi lần này:

1 - Phan Khôi và bước chuyển từ chính trị sang văn hóa của Đỗ Lai Thúy.

2 - Phan Khôi người Quảng Nam “thứ thiệt” của Phạm Phú Phong.

3 - Từ các cuộc bút chiến của Phan Khôi của Huỳnh Hùng.

Riêng Tạp chí Sông Hương, số đặc biệt, khổ lớn ra mắt bạn đọc vào giữa tháng 9/2014 đã đăng tải bài “Tình già” của Phan Khôi là thơ mới? của một cộng tác viên thường xuyên để góp phần mừng đón Hội thảo liên quan đến tuần báo Sông Hương ra mắt bạn đọc được 32 số mà số đầu tiên chào đời vào ngày 1 tháng 8 năm 1936. Tuần báo này do học giả Phan Khôi sáng lập, chủ nhiệm vừa chủ bút đã chống chèo và cầm cự được 8 tháng rồi cuối cùng tự đình bản vì lý do tài chính không cho phép. Tòa soạn đặt tại số nhà 96 rồi dời về số 80 đường Gia Hội (tức Chi Lăng - Huế ngày nay).

Đặc điểm của Tuần báo Sông Hương là chủ nhân Phan Khôi mướn nhà làm trụ sở báo. Cả nhà làm báo, chồng làm báo, hai con trai Phan Thao và Phan Cừ làm báo; thậm chí là vợ lẽ của chủ báo là bà Nguyễn Thị Huệ, thua chồng 24 tuổi, người Giao Thủy, Nam Định cũng ra tay giúp chồng quản lý tài chính để an ủi, chia sẻ khó khăn của chồng và hai con bà vợ cả để tất cả an tâm làm báo.

Mở đầu cho Hội thảo khoa học, những người tham dự được có cơ duyên tốt thưởng thức nghệ thuật làm báo bằng cách xem phim tài liệu, phim đạt giải Bạc tại Liên hoan Truyền hình toàn quốc năm 2012: Phim Con mắt còn có đuôi của đạo diễn Huỳnh Hùng, Đài Phát thanh truyền hình Đà Nẵng. Có tích mới dịch ra tuồng. Mọi người xem phim đều thể hiện niềm vui tươi, hiếu khách của người xứ Quảng và kể cả những người yêu xứ Quảng xưa nay. Vì tình người, tất cả như muốn xích lại gần người - ta hơn để dễ dàng bắt chuyện cũ sang chuyện mới một cách chân tình và chân quê mà rất thanh lịch, trang nhã. Ai trong chúng ta đã một thời “mai Huế xế Hàn”.

Số lượng con cháu nội ngoại, dâu rể của cụ Phan lên tới những hơn hai mươi người hiện diện đã thành thân và lại thành nhân. Tử tôn hôn tế đã nhiệt tình tự nguyện đóng góp bằng hiện vật là tác phẩm văn học, lịch sử viết về đất Quảng và con người xứ Quảng liên quan xa gần đến chủ đề Hội thảo để làm “quà tặng” cho khách quý hôm nay. Quý hóa nhất là có nhiều vị trong họ tộc của cụ Phan ở độ tuổi cao từ 60 đến hơn 85 tuổi mà rất mẫn tiệp bóp não trạng rồi suy tìm cái tứ để xây thành bài viết giàu chất sống trở thành tham luận có giá trị và đắc địa. Và chính người thân trong gia tộc đã can đảm vì chuộng sự thật mà lên tiếng đính chính những sai sót, sai lầm của anh em mình đã vô tình viết sai, tính nhầm ngày tháng ở chuyên mục “Phan Khôi niên biểu” (1887 - 1959). Tư liệu này là nguồn sử liệu bổ di cho sách Chương dân thi thoại đã in lần thứ nhất năm 1936. Năm 1998 tái bản sách in lần đầu, đã có bổ sung thêm 2 chuyên mục: 1/ Phần “Phan Khôi niên biểu” ở cuối sách; 2/ Phần đề dẫn khá dài, những chiếm đến 26 trang khổ 13x19 (từ trang 7 cho đến 32) của nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Văn Xuân nổi tiếng là nhà Quảng Nam học, đã được làm giảng viên thỉnh giảng tại trường Đại học Văn khoa Huế trước năm 1975.

Đại diện gia tộc họ Phan, tuổi ngoài bát tuần, con trai của cụ Phan Khôi cho biết hai ông Phan Cừ và Phan An soạn “Phan Khôi niên biểu” theo lối hồi ức. Bản thảo chưa được kiểm chứng và nhuận sắc thì lại vội đưa vào phần được xem như “bổ di” cho sách Chương dân thi thoại đã in lần đầu vào năm 1936. Sách mới cùng tựa đề được tái bản (có thêm hai phần đã nói trên) năm 1998 do Nxb. Đà Nẵng phát hành.

Ông Phan Trản đã nói trước Hội thảo phần “Phan Khôi niên biểu” (1887 - 1959) vướng phải một cái sai, cần đính chính. Và với tư cách là người cao niên quắc thước trong gia tộc thành thật xin lỗi độc giả. Đây là một việc làm “quang minh chính đại” đáng ghi nhớ, đáng ca ngợi vì ông Trản đã “nói thẳng” vấn đề. Cái sai sót, sai lầm ấy nằm ở trang 157 của bản mới Chương dân thi thoại (in năm 1998). Xin trích dẫn:

1922 - 1924:

… Do một sự việc gì đó, ông (Phan Khôi) bị Pháp tình nghi và đe dọa, nên phải chạy về Cà Mau ẩn náu nơi nhà người bạn làm chủ đồn điền. Bài thơ “Chơi thuyền trên sông Tân Bình” của ông được làm vào thời kỳ này…”. Nội dung bài thơ không dính dáng đến đất Cà Mau. Theo ông Phan Trản thì “thời gian chạy” của ông Phan Khôi không đến nỗi dài đến 3 năm 1922, 1923, 1924. Tôi nhận xét thì “3 năm” sao gọi là “thời kỳ”! Không ổn.

Một chi tiết khác mà tôi (Lê Quang Thái), người viết bài này cũng thấy bất ổn. Đó là: năm tháng thành lập và tuổi thọ của Sông Hương.

1935-1936:

Sáng lập tuần báo Sông Hương tại Huế… Báo Sông Hương sống được non một năm thì phải đình bản vì tài chánh không đảm bảo. (Sđd, bản mới 1998).

Tôi xét thấy việc ghi chép cụ Phan Khôi sáng lập tuần báo Sông Hương tại Huế vào các năm 1935 - 1936 là bất ổn, chưa đúng! Vì sao? Xin nghe cụ Phan Khôi đã viết và từng đã nói:

Chính Phan Khôi, chủ nhiệm kiêm chủ bút tuần báo Sông Hương đã viết ở số 1 như sau:

Ngày hôm nay, 1er Aout 1936, tờ tuần báo này bắt đầu ra đời.

Ra đời, Sông Hương chẳng có nghĩa gì khác hơn là tờ báo này ra ở Huế.

Người ta hay nói “sông Hương, núi Ngự”, có ý dùng mà đại biểu cho cái kinh đô của nhà vua. Nhưng sông Hương này chẳng qua là sông Hương, không dám liều mình làm một sự đại biểu hệ trọng và danh giá như thế…
”.

Còn về ngày đình bản của Sông Hương thì ở sách Nắng được thì cứ nắng của Phan An Sa do Nxb. Tri Thức xuất bản năm 2013 tại Hà Nội. Ở trang 28 sách này viết:

Như vậy là tờ báo Sông Hương của Phan Khôi chỉ sống được gần tám tháng, từ ngày 01 tháng 8 năm 1936 đến ngày 27 tháng 3 năm 1937, phục vụ bạn đọc 32 số, từ số 1 đến số 32”.

Tuần báo Sông Hương là tờ báo tư nhân do Phan Khôi sáng lập. Ông vừa làm chủ nhiệm kiêm chủ bút. Lý do đình bản là vì lý do tài chính, do không thu được tiền do người mua báo, đại lý đặt báo không chịu gởi đủ tiền cho tòa soạn. Nói một cách khác là người ta đã cố tình chi ếm dụng vốn. Làm báo tư nhân kể ra cũng khổ, bị người đọc, người làm đại lý chiếm dụng vốn khiến chủ báo đành chia tay bạn đọc sớm mà thôi.

Chúng tôi thầm nghĩ rằng những ai đã hữu tình hoặc vô tình viết sai vì thiếu thực tế và nông cạn trong suy diễn thì trước sau cũng thấy chột lòng chột dạ. Thì ra, cái chất Quảng “thứ thiệt” trong con người Phan Khôi đã được truyền chuyển trong huyết quản của con trai của cụ: ông Phan Trản.

Tuy vậy, bên cạnh những sai sót của “Phan Khôi niên biểu (1887-1959)” cũng có một ưu điểm là viết đủ và đúng giờ, ngày, tháng, năm mất của thân phụ người chấp bút: 11 giờ trưa ngày 16/01/1959 (mồng 8 tháng Chạp âm lịch). Điều này như để đính chính lại sai lầm của các sách văn học sử và từ điển danh nhân xuất bản ở miền Nam trước năm 1975.

Tham dự Hội thảo, chúng tôi mới biết Bia Mộ của Nhà báo, Nhà văn Phan Khôi tại Nghĩa trang Bạc Hà của gia tộc họ Phan thuộc thôn Tân Phong, xã Duy Châu, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Đọc Văn bia, chúng tôi thấy hai chi tiết cần chỉnh sửa. Phan An Sa con trai út của Cụ đã viết hay nói cho đúng là chép lại đầy đủ ở trong sách có giá trị cao với nhiều đầu tư công sức trong việc sưu khảo tài liệu được xuất bản năm 2013. Tác phẩm lớn có tên hơi dài, nhờ dài mà thể hiện được tính chất phân minh: Nắng được thì cứ nắng Phan Khôi từ Sông Hương đến Nhân văn.

Hai chi tiết ấy nói lên hai sự kiện trực tiếp liên quan đến tiểu sử của nhà báo, nhà văn Phan Khôi (viết bằng chữ in hoa):

1 - ĐỖ TÚ TÀI NHO HỌC NĂM 1906 (KHOA THI NĂM ẤT TỴ).

2 - MẤT NGÀY 08/12 NĂM KỶ HỢI (16/01/1959) TẠI HÀ NỘI, AN TÁNG TẠI NGHĨA TRANG HỢP THIỆN.


(Nguồn: sách Nắng được thì cứ nắng Phan Khôi từ Sông Hương đến Nhân văn. Phan An Sa, Nxb. Tri Thức, Hà Nội, 2013, tr.667-668).

Chi tiết 2, tác giả Phan An Sa đã thận trọng viết ở sách đã dẫn tại trang 669:

- Ngày mất của ông là ngày 16 tháng 1 năm 1959 (tức ngày 8 tháng 12 năm Mậu Tuất).

Như vậy chỉ cần sửa năm âm lịch cho đúng là năm MẬU TUẤT.

Chi tiết 1, có nhiều sách và từ điển nhân vật viết sai về năm đỗ Tú tài Hán học của Phan Khôi, kể cả tiểu phần “Phan Khôi niên biểu (1887 - 1959)” của sách Chương dân thi thoại tái bản năm 1998. Người ta đã viết Phan Khôi đỗ Tú tài năm 1905 tức năm Ất Tỵ. Sai! Và lầm! Lệ xưa, quy định các năm Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu thi Hương để lấy đỗ Tú tài, cử nhân; Sửu, Mùi, Thìn, Tuất thi Hội để lấy đỗ từ Phó bảng, tiến sĩ trở lên. Tra lịch sử thi cử triều Nguyễn không thấy, và làm sao thấy có được khoa thi Hương năm Ất Tỵ, cho dẫu là ân khoa đi nữa! Đã có dự kiến tổ chức ân khoa năm Nhâm Thìn, 1904, niên hiệu Thành Thái thứ 16, nhân gặp lễ đại khánh tiết Hoàng Thái Hậu - Vì vậy viết vào lòng bia trong mở đóng dấu ngoặc đơn: (Khoa thi năm Ất Tỵ).

Vì vậy chúng tôi mạnh dạn góp ý “những từ trong dấu mở đóng” ấy sẽ sớm được điều chỉnh lại để nâng cao giá trị văn học của một văn bia của nhà phản biện xuất sắc nhất của thế kỷ XX của nước Việt thân yêu, tác giả của sách Việt ngữ nghiên cứu.

Ông Phan An Sa ơi! Ông sẽ khỏi phân vân và ái ngại gì nữa, vì tính ông vốn thẳng thắn và cầu thị cho nên khi viết nhận xét về nội dung văn bia của thân phụ mình ông đã lên tiếng “thế vấn” để bảo vệ cho phần đóng góp ý kiến phản biện mà tất cả vì một lý do chính đáng: tôn trọng sự thật.

Lý do khiến cụ Tú Phan Khôi bỏ ngang con đường khoa cử Hán học là vì khoa thi năm Bính Ngọ, 1906 tại trường thi Thừa Thiên “thật lôi thôi” nếu không muốn nói rõ hơn là khoa thi này là khoa thi “bê bối”. “Bê bối” như thế nào, Cao Xuân Dục đã nói ở trong sách Quốc triều hương khoa lục, Sđd, tại tr-591: “Trường Thừa Thiên. Lấy đậu 35 người. Sau khi ra bảng, sĩ tử đưa đơn tới Tòa Khâm sứ cùng Cơ mật viện khiếu nại về 11 Cử nhơn học dở mà lạm trúng. Vì vậy Quý Tòa bàn bạc chuẩn lập hội đồng, cử quan người Pháp người Nam tiến hành duyệt lại…”.

Khoa thi này do Thị Lang bộ Hình Tạ Tương làm Chủ khảo, Án sát Quảng Nam Từ Thiệp làm Phó chủ khảo. Dư luận trong thế gian thời bấy giờ gọi khoa thi này là “nát như tương” để lại một vết đen trong lịch sử khoa cử Hán học vào đầu thế kỷ 20. Đọc tiếp:

Trong đó người thứ 4 là Hồ Đắc Đệ, người thứ 17 là Trần Xuân Giản, người thứ 42 là Nguyễn Đức Thố văn lý tạm trôi hơn cả, vẫn cho lấy đậu. Còn người thứ 11 là Lê Xán, người thứ 23 là Nguyễn Văn Uất, người thứ 27 là Lưu Đức Tuấn, người thứ 33 là Thái Quy, người thứ 36 là Nguyễn Gia Khái, người thứ 37 là Vũ Khắc Triển cộng 8 người văn lý tầm thường đều giáng xuống hạng Tú tài, lại cho vào dự thi phúc hạch, truất cả…”.

Tham dự viết đơn kiện quan trường chấm thi khoa thi này bất minh có các sĩ tử đất Quảng, tiêu biểu là Phan Khôi, Dương Thưởng, Dương Thạc…

*

Hội thảo khoa học lần này được xem như Hội thảo bản lề đặt trên nền tảng vững chắc cho Hội thảo lần sau vào năm 2017 tại Hà Nội như báo Thanh Niên ra ngày 7/10/2014 đã viết: “Nhà sử học Dương Trung Quốc cũng kiến nghị tỉnh Quảng Nam cần quan tâm bảo tồn, phát huy những di sản liên quan đến Phan Khôi, tập hợp những dữ liệu để cùng các nhà chuyên môn xây dựng bộ toàn tập về Phan Khôi đầu tiên, kể cả việc đặt tên đường Phan Khôi tại Quảng Nam (hiện TP. Đà Nẵng đã thực hiện). Hội Khoa học lịch sử Việt Nam dự kiến mở hội thảo về Phan Khôi với phạm vi nghiên cứu toàn diện hơn vào năm 2017 tại Hà Nội, nhân dịp 130 năm ngày sinh Phan Khôi”.

Chúng tôi tin rằng hương hồn nhà văn, nhà báo Phan Khôi đã an giấc ngàn thu trong lòng đất Việt và đất Quảng rất thanh thản, tươi vui như lúc sinh tiền cụ hay ngâm hai câu thơ do chính mình sáng tác:

Cũng đành nhắm mắt không ân hận
Nằm dưới mồ nghe khúc thái bình
”.

L.Q.T  
(SH309/11-14)





 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HỒNG DIỆUNhà thơ Cao Bá Quát (1809-1854) được người đời hơn một thế kỷ nay nể trọng, với cả hai tư cách: con người và văn chương. "Thần Siêu, thánh Quát", khó có lời khen tặng nào cao hơn dành cho ông và bạn thân của ông: Nguyễn Văn Siêu (1799-1872).

  • HÀ VĂN THỊNHI. Có lẽ trong nhiều chục năm gần đây của lịch sử thế giới, chưa có một nhà sử học nào cũng như chưa có một cuốn sách lịch sử nào lại phản ánh những gì vừa xẩy ra một cách mới mẻ và đầy ấn tượng như Bob Woodward (BW). Hơn nữa đó lại là lịch sử của cơ quan quyền lực cao nhất ở một cường quốc lớn nhất mọi thời đại; phản ánh về những sự kiện chấn động nhất, nghiêm trọng nhất đã diễn ra trong ba năm đầu tiên của thiên niên kỷ mới: sự kiện ngày 11/9, cuộc chiến tranh Afganistan và một phần của cuộc chiến tranh Iraq.

  • ĐẶNG TIẾN     (Đọc Hồi ức của Đại tướng Võ Nguyên Giáp)Một tờ báo ở ngoài nước đã giới thiệu bốn cuốn hồi ức của Đại tướng Võ Nguyễn Giáp mới xuất bản. Dĩ nhiên là một bài báo không thể tóm lược được khoảng 1700 trang hồi ký viết cô đúc, nhưng cũng lảy ra được những đặc điểm, ý chính và trích dẫn dồi dào, giúp người đọc không có sách cũng gặt hái được vài khái niệm về tác phẩm.

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO       (Đọc tập truyện ngắn “Trà thiếu phụ” của nhà văn Hồng Nhu – NXB Hội Nhà văn 2003)Tôi đã được đọc không ít truyện ngắn của nhà văn Hồng Nhu và hầu như mỗi tập truyện đều để lại trong tôi không ít ấn tượng. Trải dài theo những dòng văn mượt mà, viết theo lối tự sự của nhà văn Hồng Nhu là cuộc sống muôn màu với những tình cảm thân thương, nhiều khi là một nhận định đơn thuần trong cách sống. Nhà văn Hồng Nhu đi từ những sự việc, những đổi thay tinh tế quanh mình để tìm ra một lối viết, một phong cách thể hiện riêng biệt.

  • ĐỖ QUYÊN…Đọc thơ Bùi Giáng là thuốc thử về quan niệm thơ, về mỹ học thi ca. Đã và sẽ không ai sai nhiều lắm, cũng không ai đúng là bao, khi bình bàn về thơ họ Bùi. Nhắc về cái tuyệt đỉnh trong thơ Bùi Giáng, độ cao sâu tư tưởng ở trước tác Bùi Giáng nhiều bao nhiêu cũng thấy thiếu; mà chỉ ra những câu thơ dở, những bài thơ tệ, những đoạn văn chán trong chữ nghĩa Bùi Giáng bao nhiêu cũng bằng thừa…

  • LÊ THỊ HƯỜNGTrong căn phòng nhỏ đêm khuya, giai điệu bản sonat của Beethoven làm ta lặng người; một chiều mưa, lời nhạc Trịnh khiến lòng bâng khuâng; trong một quán nhỏ bên đường tình cờ những khúc nhạc một thời của Văn Cao vọng lại làm ta bất ngờ. Và cũng có thể giữa sóng sánh trăng nước Hương Giang, dìu dặt, ngọt ngào một làn điệu ca Huế khiến lòng xao xuyến.

  • NGÔ MINHĐến tập thơ chọn Giếng Tiên (*), nhà thơ - thầy giáo Mai Văn Hoan đã gửi đến bạn yêu thơ 5 tập thơ trữ tình, trong đó có hai tập thơ được tái bản. Đó là tập đầu tay Ảo ảnh, in năm 1988, tái bản 1995 và tập Hồi âm, in năm 1991, tái bản năm 2000. 15 năm xuất bản 7 đầu sách (2 tập tiểu luận) và đang có trong ngăn kéo vài tập bản thảo tiểu luận nữa, chứng tỏ sức sáng tạo sung mãn đáng nể trọng của một thầy giáo vừa dạy học vừa sáng tác văn chương.

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO        (Đọc tập thơ ''Độc thoại trước mặt trời'' của Trần Lan Vinh- NXB Văn học Hà Nội- 2003)Trên thi đàn văn học Việt Nam hiện đại, sự thiếu vắng những cây bút nữ đã trở thành một vấn đề cần được chú trọng. Hầu như mỗi khi phụ nữ cầm bút, điều họ quan tâm nhất đó là sự giải bày tâm sự với ngàn ngàn nỗi niềm trắc ẩn. Nếu viết là một cách để sẻ chia tâm sự thì Trần Lan Vinh là một trường hợp như thế.

  • NGUYỄN THANH TÚMùa đông năm ngoái, anh Đoàn Tuấn từ Hà Nội vào Huế giảng dạy lớp đạo diễn điện ảnh. Dù công việc khá bận rộn nhưng anh vẫn dành cho tôi không ít thời gian tâm sự, bởi ngoài tình cảm thân thiết anh còn là cấp trên của tôi ở toà soạn tạp chí Thế Giới Điện Ảnh. Trong những lần trò chuyện ấy, tôi thật sự bất ngờ khi nghe anh kể chuyện về cuốn sách anh sắp in ở Nhà xuất bản Trẻ mà nội dung của nó là câu hỏi hơn 20 năm nay vẫn luôn canh cánh trong tôi. Vốn dĩ Đoàn Tuấn là nhà biên kịch điện ảnh tên tuổi, anh đã có nhiều kịch bản phim nổi tiếng như: Chiếc chìa khoá vàng (1998), Ngõ đàn bà (1992), Đường thư (2003)...

  • MAI VĂN HOANNguyễn Khoa Điềm đến với thơ hơi muộn nhưng đã sớm định hình một phong cách riêng. Qua các tập Đất ngoại ô (1972), Mặt đường khát vọng (trường ca, 1974), Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (1986), Thơ Nguyễn Khoa Điềm (1990), Cõi lặng (2007) ta bắt gặp những suy ngẫm của anh đối với nhân dân, đất nước; những chiêm nghiệm của anh về đời sống xã hội, nhân tình thế thái. Những chiêm nghiệm và suy ngẫm đó được thể hiện bằng một giọng thơ trầm tĩnh, bình dị, sâu lắng và khá hiện đại.

  • NGUYỄN QUANG HÀ       (Đọc Nỗi niềm để ngỏ của Lê Lâm Ứng - Nhà xuất bản Văn học 2002)Đọc thơ Lê Lâm Ứng để tìm những câu mượt mà thì hơi khó. Thảng hoặc lắm mới bắt gặp ở anh tâm trạng thư thái này:                Biết rằng trong cõi nhớ thương                Lạc nhau âu cũng lẽ thường vậy thôi

  • MAI VĂN HOANNguyễn Đắc Xuân không chỉ có chân trong Hội Nhà văn Việt Nam mà anh còn là hội viên Hội Lịch sử Việt Nam, hội viên Hội Nhà báo Việt Nam... Nhưng dù ở cương vị nào thì điều mà anh tâm huyết nhất vẫn là lịch sử và văn hóa Huế.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG   (Nhân đọc sách "Gió về Tùng Môn Trang" của Nguyễn Xuân Dũng)Tác giả cuốn sách này là một võ sư đệ bát đẳng huyền đai thuộc phái không thủ đạo, vừa là một nhà hoạt động thương trường nổi tiếng ở Mỹ. Nhưng cuốn sách này không hề bàn đến chuyện đấm đá hơn kém hoặc là chuyện mua bán lời lỗ mà bàn về cái TÂM. Tác giả tỏ ra hết sức chú trọng vũ đạo; nhất cử nhất động đều phải xuất phát từ cái TÂM, cái TÂM viết hoa.

  • TRẦN THUỲ MAI            (Đọc Uẩn khúc, tiểu thuyết của Hoàng Văn Bàng, NXB Thuận Hoá 2002)Câu chuyện xảy ra ở một vùng quê không xa lắm, với một tầm mức tai hại không lớn, gây một ảnh hưởng mới xem qua tưởng chừng không đáng kể. Một ông trưởng phòng ở huyện tham ô vài chục triệu thì đã thấm gì so với những câu chuyện động trời hàng ngày trên các báo, mà thủ phạm mang những chức tước lớn lao hơn, với những số tiền khổng lồ tới hàng nghìn tỉ!

  • MAI VĂN HOAN         (Giới thiệu các tác giả thuộc chi hội nhà văn Việt Nam tại Huế)Ngô Minh là một trong những nhà văn Việt Nam ở Huế được Đài truyền hình Cáp Việt Nam chọn giới thiệu tới 45 phút trong chương trình “Người của công chúng”. Tôi cũng được mời nói đôi lời về anh. Với tôi, Ngô Minh là người làm việc “tới số” và chơi cũng... “tới số”!

  • PHẠM XUÂN NGUYÊNCùng một kiếp bên trời lận đận                  (Bạch Cư Dị - Tỳ bà hành)Nhà văn Bùi Ngọc Tấn vừa cho ra mắt tác phẩm Rừng xưa xanh lá (Mười chân dung văn nghệ sĩ) tại Nhà xuất bản Hải Phòng (1/2003).

  • TÔ VĨNH HÀNhững trang viết sau cùng của một con người luôn luôn là điều thiêng liêng và không bao giờ hết bí ẩn. Vì sao lại dùng từ ấy chứ không phải là chữ kia; đề cập đến cái này chứ không phải là cái khác..? Rất nhiều câu hỏi sẽ đến với người đọc khi trước mắt ta là những ý tưởng hiện hữu sau cùng của một đời người - đặc biệt ở con người vĩ đại như Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh là cái tên mà mỗi người Việt lúc đọc hay nói, không chỉ diễn đạt một quan niệm gần như vô hạn của nhận thức, mà hơn nhiều thế nữa - là âm sắc tuyệt vời của sự kết tụ những tinh hoa quý giá nhất của trái tim mình.

  • NGUYỄN TỐNGQuê hương đất nước và con người luôn có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau trong suốt chiều dày của lịch sử dựng nước và giữ nước. Nó tự nhiên chan hoà đến mức như cá bơi quẫy giữa đại dương, chim tung cánh vô tư giữa bầu trời bát ngát. Đến lúc nào đó, khi con người rơi vào cảnh cá chậu chim lồng, tình cảm, ý thức về đất nước thiêng liêng mới trở nên ám ảnh day dứt.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ           (Đọc “Thân Trọng Một – con người huyền thoại” của Nguyễn Quang Hà)Đã từ lâu, tên tuổi anh hùng Thân Trọng Một trở nên thân quen với mọi người, nhất là với quân dân Thừa Thiên Huế; những “sự tích” về ông đã thành truyện “truyền kỳ” trong dân chúng và đã được giới thiệu trên nhiều sách báo. Tuy vậy, với “THÂN TRỌNG MỘT – CON NGƯỜI HUYỀN THOẠI”, lần đầu tiên, chân dung và những chiến công của ông đã được tái hiện một cách đầy đủ và sinh động nhất.

  • Nhà văn Nguyễn Quang Hà tâm sự với tôi rằng anh có hai món nợ rất lớn mà chắc đến khi nhắm mắt xuôi tay cũng không thể nào trả xong. Hai món nợ mà anh đang gánh trên đôi vai của mình là món nợ đối với nhân dân và món nợ đối với đồng đội. Gần bốn mươi năm cầm bút, anh đã viết 9 tập tiểu thuyết; 7 tập truyện ngắn, ký, truyện ký; 2 tập thơ cùng với hàng trăm bài báo cũng chỉ mong sao trả được hai món nợ ấy.