Cái tâm

15:53 27/05/2009
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG   (Nhân đọc sách "Gió về Tùng Môn Trang" của Nguyễn Xuân Dũng)Tác giả cuốn sách này là một võ sư đệ bát đẳng huyền đai thuộc phái không thủ đạo, vừa là một nhà hoạt động thương trường nổi tiếng ở Mỹ. Nhưng cuốn sách này không hề bàn đến chuyện đấm đá hơn kém hoặc là chuyện mua bán lời lỗ mà bàn về cái TÂM. Tác giả tỏ ra hết sức chú trọng vũ đạo; nhất cử nhất động đều phải xuất phát từ cái TÂM, cái TÂM viết hoa.

Võ sư Nguyễn Xuân Dũng

Lưu ý rằng gắn liền với truyền thống phương Đông mọi giá trị đều có hai mặt Đời và Đạo, thí dụ ta có y thuật và y đạo, trà và trà đạo, hoa và hoa đạo... Vậy, vũ đạo là tinh tuý của vũ thuật, giống như linh hồn là anh hoa của thể chất nơi con người. Đã nói tới Đạo, người ta không thể làm bộ ngây thơ để không biết rằng vị tổ sư đầu tiên của thiền học là Bồ Đề Đạt Ma. Chính ở đây, vũ đạo gia nhập vào truyền thống tâm linh của người phương Đông trong tính ảo diệu và linh hiển của nó. Đạo là đầu mối của tất cả, và cái TÂM là một thành tố ở trong đó. Bản thể của cái TÂM là rỗng không, vì bản thể của đạo cũng là hư không. Trong bài kệ đầu tiên của Phật dạy, ngài truyền rằng cái TÂM thường hay bị nhiễu loạn, người ta phải tìm cách thu hồi nó lại, giống như trẻ mục đồng đi tìm bắt con trâu bị lạc đường và dẫn nó về nhà như trong bộ tranh "Thập mục ngưu đồ" vẫn được tôn thờ nơi những ngôi chùa cổ ở Huế, trong đó chữ TÂM được diễn đạt bằng một vòng tròn rỗng không. Trong vũ đạo, mọi động thái của quyền cước đều phải mang sắc thái tĩnh không của cái TÂM để vũ thuật không mất đi cái ý nghĩa ảo diệu của nó. Nói cho cùng thì một võ sĩ cũng đồng nhất với một nhà hành giả trên đường tìm về cái TÂM của mình. Không có cái TÂM dẫn dắt thì vũ thuật trở thành một trò múa may thô bạo, trò đao búa hại người, điều mà các võ phái không thể thừa nhận. Đi tìm cái TÂM để trang bị cho vũ thuật giữa lúc mà các võ đường thi nhau mọc lên như nấm và cái TÂM thì xa tít mù hầu như mất dạng, đó chính là tham vọng của tác giả Nguyễn Xuân Dũng khi cho ra đời tập sách này; và đó cũng là cái TÂM lo đời của một cao đồ không thủ đạo.

Cuốn sách này ít chú trọng đến thương trường nên cũng ít nghe tác giả nói về cái TÂM trong thương nghiệp. Chú ý rằng với một thời gian chừng sáu, bảy năm tác giả đã thành lập một loạt Công ty, chen vai thích cánh với các nhà đại doanh nghiệp; mở đầu là Công ty Quantek đã vượt qua một đại gia của thương trường Mỹ là Công ty IBM. Đứng vững được bên cạnh IBM đã là một điều khó; đằng này Quantek đã sáng chế ra nhiều linh kiện của máy tính điện tử mà từ trước đến nay, IBM chưa hề biết đến, và phải đặt hàng ở Công ty Quantek. Điều ấy trước hết là nhờ ở trí thông minh kỳ lạ của người sáng lập và lãnh đạo Công ty. nhưng trên hết chúng ta biết đó chính là sức mạnh của cái TÂM. Chính cái TÂM trong cách sống là sức mạnh, nội lực của hệ thống đã thuyết phục đám đông công nhân phải tận tâm tận lực xây dựng Công ty của mình.

Một ví dụ khác là sản phẩm cái chăn đắp cho trẻ sơ sinh, đã thu hút sức mua của những bà mẹ trên thị trường Mỹ. Có phải chăng vì luôn luôn suy nghĩ bằng cái TÂM, mà tác giả đã phát minh ra một bộ phận phát ra tiếng kêu giống như tiếng đập của "trái tim" người Mẹ; quả nhiên hài nhi nào cũng tìm thấy một giấc ngủ an lành trong tiếng đập kia; và trước những bất trắc của cuộc đời, mỗi con người lại tìm về ẩn náu trong nhịp đập trái tim của Mẹ. Hệ thống nhập thế của Khổng giáo không bàn nhiều về cái Tâm, có lẽ vì cho rằng cái tâm là điều mặc nhiên trong truyền thống đạo của phương Đông. Ở Mạnh Tử, đôi khi bàn về chữ Tính, có dùng hình tượng "xích tử" (con đỏ) và hình tượng nổi tiếng "anh nhi chi vị hài" (đứa bé sơ sinh chưa biết cười). Phải đợi đến Vương Dương Minh, học thuyết "Tâm học" mới ra đời, trong đó cái tâm được xem như một "chủ thể nhận thức". Nhưng cả Mạnh Tử và Vương Dương Minh đều là những nhà Nho; và ở thời Vương Dương Minh, tâm học phải lùi bước trước lý học của đời Tống; và cái tâm đã bị xao nhãng dần trước sức lôi kéo ào ạt của lối sống phương Tây. Nên trong truyền thống của Đạo, cánh nhà Nho thường dựa dẫm vào ý kiến này của Lão học: "Đạo khả đạo phi thường đạo". Đi đến tận cùng ý niệm nguyên uỷ này, ta lại bắt gặp ý niệm Phật tánh trong đạo Thiền.

Nói tóm lại, Bồ Đề Đạt Ma là người thay mặt truyền thống đạo đông phương để truyền bá về cái tâm, trong đạo nói chung, cả vũ đạo nói riêng. Trở lại vấn đề đang nói ở trên, cuối một đời nhập thế tận tụy, các đấng nam nhi của Nho giáo đều phải quay về mượn triết học xuất thế của Lão giáo để giữ thăng bằng cho đời sống tâm linh của mình. Nguyễn Công Trứ đã từng nói: "Nước nhà yên mà sĩ được thong dong, bây giờ sĩ mới tìm ông Hoàng Thạch". Ai cũng biết, Hoàng Thạch Công chính là một đại biểu của Lão giáo. Chính nỗi nhớ da diết về quê hương cũng là một biểu hiện của cái tâm. Tác giả tỏ ra thương nhớ khôn nguôi về một cánh rừng hoang dại nằm ở "phía Nam Đà Lạt" với hình ảnh của thầy xưa bạn cũ, với ngôi làng Thanh Lam Bồ chôn nhau cắt rốn, nơi tác giả đã sinh ra và đã sống một tuổi ấu thơ êm đềm như bất cứ ai cùng sinh ra; và không quên được thành phố Huế và dòng sông xanh biếc tác giả đã lớn lên bằng tuổi thanh niên thơ mộng. Nếu chỉ dựa vào trên tiêu chí của xã hội Mỹ, tác giả có thể tự hài lòng về bản thân, và yên tâm đi tới trên con đường đã tìm thấy sau những thành đạt lúc đầu. Nhưng Nguyễn Xuân Dũng đã ngoái lại nhìn một thời đất Việt xa xôi, và đã phát hiện ra cái TÂM.

Chính tấc lòng tha thiết ấy cũng là sự thể hiện của cái tâm mà không phải dễ gì người nào cũng có. Tấc lòng thương cây nhớ cội vẫn không ngớt len vào giấc ngủ của tác giả trong những đêm trằn trọc trên xứ người đã toả lan một chất thơ đằm thắm muôn vàn trên mỗi dòng chữ của "Gió về Tùng Môn Trang", khiến người đọc lấy làm ngạc nhiên về phong thái văn chương của một người vốn là con nhà võ.

Tổ sư Bồ Đề Đạt Ma đã tịch mịch nhưng lịch sử Phật giáo khẳng định rằng chúng ta đang ở thời mạt pháp. Vào thời buổi này con người thực dụng chủ nghĩa đang thừa thắng nhảy vào chỗ của con người đạo học. Hơn ai hết, tác giả Nguyễn Xuân Dũng muốn tìm cách ngăn chặn sự đổ vỡ từ bên trong của những ai mê muội tin rằng con người kỹ trị của nền văn minh Mỹ là một đấng siêu nhân có thể mang đến cho nhân loại hết thảy mọi thứ, kể cả hạnh phúc. Nguyễn Xuân Dũng đã hoảng hốt kêu to lên rằng người ta không nên nhầm lẫn đến như thế, hãy mau quay về níu lấy cái tâm mà sống.

Ai cũng thấy cần luôn tu dưỡng cái tâm, nhưng theo tôi, thực cũng chưa mấy có ai chịu khó cúi xuống chăm sóc cái tâm bằng ý thức âu yếm như tác giả tập sách này. Thành thật mà nói, tôi đã cảm động xiết bao trên từng trang của "Gió về Tùng Môn Trang".

Huế, ngày 04 tháng 7 năm 2003
H.P.N.T
(174/08-03)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN ĐÔNG NHẬT19 lời chứng của những ONS(1) cuối cùng, lần đầu tiên được lên tiếng qua công trình nghiên cứu hoàn hảo của bà Liêm Khê LUGUERN(2) là những nhân chứng cuối cùng trong số khoảng 27.000 người từ Đông Dương bị lùa đến nước Pháp từ tháng 10/1939 đến tháng 6/1940 để phục vụ cho guồng máy chiến tranh của thực dân Pháp trong Thế chiến thứ II.

  • LÝ HẠNHAi trong đời chẳng đã một lần làm thơ. Dù làm thơ để giải trí hay sẻ chia thì những trang thơ ấy cũng là tiếng hát của trái tim, là nơi dừng chân của tâm hồn.

  • LTS: Có một chuyện ít người biết là các nhà văn Tô Hoài, Xuân Diệu, Huy Cận không nhớ ngày sinh của mình. Xuân Diệu, con nhà Nho, thì biết mình sinh giờ Thìn, ngày Thìn, tháng Thìn, năm Thìn, nhưng không biết dương lịch ngày nào. Nhà văn Tô Hoài cũng vậy, nhưng nhớ Bà Cụ cho biết sinh ông đêm rằm Trung Thu. Sau này, sang Nga, bạn người Nga hỏi, mới tra ra ngày Tây là 27-9-1920. Do đó trên các tư liệu, thường thấy ghi ngày sinh: 07-9-1920, và nhà văn cũng không buồn đính chính. Nhân kỷ niệm 90 năm ngày sinh nhà văn Tô Hoài, Sông Hương nhận được bài viết của nhà văn Đặng Tiến cùng thông tin về ngày sinh Tô Hoài nói trên. Xin giới thiệu cùng bạn đọc.

  • HOÀNG DŨNGKhông phải ngẫu nhiên khi ta nói vũ trụ, thế giới thì vũ, giới là không gian, mà trụ, thế là thời gian. Ngay trong những khái niệm tưởng chỉ là không gian, cũng đã có thời gian quấn quýt ở đấy.

  • LTS: Trong các ngày 7-9/9/2010 sắp đến, Ủy ban Văn hóa Hội đồng Giám mục Việt Nam và Tòa Tổng Giám mục Giáo phận Huế sẽ tổ chức Hội thảo về thân thế và sự nghiệp của Léopold Cadière (1869-1955), Nhà nghiên cứu về Huế và Việt Nam học, chủ bút của tập san Bulletin des Amis du Vieux Hué (B.A.V.H), một trong số các tờ báo hay nhất ở Đông Dương thuở trước. Hội thảo sẽ có một số nội dung liên quan đến văn hóa Huế như Văn hóa Huế, Mỹ thuật Huế, Cổ vật Huế dưới con mắt của L. Cadière... Nhân dịp này, Tạp chí Sông Hương đăng bài viết của nhà nghiên cứu Hồ Vĩnh, chuyển tải vài nét về hoạt động văn hóa của Léopold Cadière. Xin giới thiệu cùng bạn đọc.S.H

  • NGUYỄN THỊ HÒA Không cần phải bàn cãi, Từ điển tiếng Huế của Tiến sĩ, Bác sĩ Bùi Minh Đức là một tác phẩm Từ điển. Một quyển từ điển về phương ngữ địa phương Huế mà dày dặn, công phu, với 2050 trang, thể hiện công sức nghiên cứu miệt mài của một vị bác sĩ - nghiệp dư với nghề ngôn ngữ, nhưng đầy nhiệt tình và khá chuyên nghiệp trong nghiên cứu.

  • Sinh ngày 6-2-41 tại Huế. Hy sinh ngày 11-10-68 tại vùng biên giới tỉnh Tây Ninh, nguyên quán làng Bát Tràng tỉnh Bắc Ninh. Học sinh cũ Trường Quốc Học, tốt nghiệp Đại học Sư phạm Ban Việt văn. Tên thật và bút hiệu công khai, chính thức: Trần Quang Long. Các bút hiệu khác: Thảo Nguyên, Chánh Sử, Trần Hoàng Phong.

  • TRẦN HỮU LỤCỞ tuổi 20, hành trình sáng tác của Nhóm Việt gắn liền với những biến cố lịch sử ở miền Nam (1965-1975). Những cây bút trẻ của Nhóm Việt đã bày tỏ một thái độ dấn thân ngày càng sâu sắc, vừa trên bình diện ý thức công dân, vừa trên bình diện ý thức nghệ sĩ.

  • PHONG LÊ(Kỷ niệm 100 năm ngày sinh Nguyễn Tuân 10-7-1910 – 28-7-1987)

  • NGUYÊN QUÂN Phía đằng sau những con chữ bình dị như một chốn quê nhà chưa bị ô nhiễm cơn đau phố bụi, một ngôi làng yên bình vẫn luôn hằng hiện trong mỗi hơi thở, mỗi bước gian truân của tác giả là sự chân thật đến nao lòng.

  • LÝ HOÀI THU Những câu thơ đầu tay của Hữu Thỉnh cất lên từ những cánh rừng Trường Sơn được anh gọi là “Tiếng hát trong rừng”. Anh viết về đồng đội, về cơn sốt rét rừng, về những trận bom và vết hằn xe xích, về mây, suối, dốc, thác Trường Sơn.

  • THÁI DOÃN HIỂU…Khi sự vong ân bội nghĩa của người đời đang diễn ra ở khắp đó đây thì Hoàng Trần Cương là người sống bằng ân sâu nghĩa cả. Với anh, ân nghĩa là một gánh nặng phải gánh. Anh nói về ân nghĩa như là một thứ trí nhớ của lương tri, một món nợ không bao giờ trả xong…

  • VŨ DUY THÔNG        (Thơ - Nghiêm Huyền Vũ, Nxb Trẻ 2000)Khác với bên ngoài, Nghiêm Huyền Vũ trong thơ là người trầm tư, cái trầm tư nhuốm vị triết học.Vây bọc quanh anh là không gian, thứ không gian cô liêu.

  • TRẦN QUỐC THỰCÍt người chịu đi tìm tiếng nói riêng khi đọc một tập thơ, một chặng thơ của một người. Qua từng chặng thơ, tiếng nói riêng ấy sẽ trở thành một cách thơ riêng biệt. Và đó là điều đáng mừng cho đội ngũ sáng tác.

  • NGUYỄN THANH TÚ          (Phác thảo chân dung nhà văn Nguyễn Bảo)

  • LGT: Cuốn tiển thuyết “Biết đâu địa ngục thiên đường” của nhà văn Nguyễn Khắc Phê vừa xuất bản được xem là tác phẩm thành công nhất của ông, cũng là cuốn tiểu thuyết viết kỹ lưỡng nhất, lâu nhất. Cuốn tiểu thuyết này hiện nay nằm trong danh sách những cuốn vào chung khảo cuộc thi tiểu thuyết của Hội Nhà văn Việt Nam. Sông Hương xin giới thiệu những ý kiến nhận định rất chân thành của Giáo sư Trần Đình Sử, nhà văn Ma Văn Kháng và nhà nghiên cứu phê bình Từ Sơn.

  • FAN ANHCon người khác con vật không chỉ ở đặc điểm con người có một bản ngã, một cái tôi luôn biến động, mấu chốt nằm ở chỗ, con người có thể có nhiều bản ngã khác nhau, tồn tại một cách âm thầm trong những thế giới mà nhiều khi ngay bản thân mỗi cá nhân chúng ta cũng không thể am tường hết.

  • VĂN CẦM HẢI(Nhân đọc “Giọng nói mơ hồ” - Nguyễn Hữu Hồng Minh. Nxb trẻ 1999)

  • ĐỖ NGỌC YÊNHồ Quý Ly là một nhân vật lịch sử có thật. Hơn nữa ông đã từng làm đến chức quan Thái sư dưới thời nhà Trần khoảng từ năm 1370 - 1400, và lập nên nhà Hồ từ năm 1400 - 1407.

  • Phỏng vấn nhà nghiên cứu Nguyễn Việt - chuyên viên Hiệp hội CLB UNESCO Việt Nam – nhân cuộc triển lãm thư pháp thơ “Nhật ký trong tù” của Bác Hồ tại Bảo tàng Hồ Chí Minh Thừa Thiên Huế 8-2000