Cái quạt kè

10:18 19/08/2009
XUÂN CHUẨNĐể rồi tôi kể cho ông nghe về lai lịch cái quạt, để ông ông khỏi coi tôi là Thằng Bờm có cái quạt mo. Cái thời quạt điện quạt đá, máy lạnh mà cứ bo bo cái quạt kè, thỉnh thoảng lại đạp phành phạch như mẹ hàng cá thách lên giữa chợ. Cũng chẳng có gì li kỳ, hay mùi mẫn rơi lệ, chỉ là chuyện đời tầm phào.Hai ông trải chiếu ngồi giữa sân, nhâm nhi chén trà, ông Thân nói với đại tá Tiến về hưu như vậy khi đại tá ngỏ ý thích cái quạt kè của ông.

Ảnh minh họa - rfi.fr

Ông còn nhớ cái đận tôi đưa bà nhà tôi đi một tua du lịch: Đà Nẵng, phố cổ Hội An, biển Nha Trang, Sài Gòn, Đà Lạt, quay ra Hà Nội mới về. Đận ấy các ông bảo tôi là thằng bốc, thằng hâm, tôi đành chịu, giữa thời buổi làm ăn, mà đã là giám đốc giám điếc, quan lớn quan bé gì đâu, chỉ là anh giáo quèn về hưu, mà dám bỏ năm bảy triệu bạc, xách vợ đi lang thang như thằng rồ. Các ông chửi thì tôi chịu, chứ tôi phải đưa bà ấy đi một chuyến, rồi đến đâu thì đến, cho bà ấy biết một chút cái gọi là sung sướng trong một đời làm vợ. Ông là lính, tôi cũng là lính, ông còn lạ gì! Có thằng chỉ cưới vợ được một hai đêm rồi ra đi, một vài năm có dịp, lẻn được về với vợ vài ngày, mấy con gà vợ đã hứa với con bán đi để mua vải may áo cho mẹ cho con, ba ngày hết cả ba con, khi ra đi vợ lại ngồi vá áo, thế rồi chín tháng sau lại một thằng cu hay con hĩm ra đời, cả đơn vị reo hò “Thế là lại thêm tay súng, hay một cô thanh niên xung phong Trường Sơn” - lính mà. Cứ thế một lũ ra đời. Anh có phải nuôi nấng, chăm bẵm gì đâu! Các bà ấy cả! Con sống rồi con chết, đều một tay các bà ấy, bây giờ về, nghề ngỗng không, chức vị không, lại các bà ấy hầu hạ. Thương lắm ông ạ!

Giọng ông Thân nghẹn lại, ông Tiến ngồi im. Ông Thân vỗ vỗ chiếc điếu cày, vê thuốc, châm lửa rít một hơi, ngửa mặt phả khói lên trời, mắt ông nhìn xa xăm như nhìn vào quá khứ, nơi sâu thẳm của lòng ông.

- Chuyện ngày xưa ở Trường Sơn của anh em mình thì kể khi nào cho hết, mà bây giờ mấy ai thích nghe đâu ông.

- Thì biết là thế! Nhưng chúng mình thì quên sao được. Chuyện cái quạt cũng liên quan đến một thằng ở Trường Sơn. Chính cái hôm
chúng tôi vào Vinh để đi, tầu mãi 8 giờ mới chạy, tôi đang ngồi hóng gió ở sân ga, bỗng một lão chống gậy, đeo toòng teng hai xâu quạt kè, một cục cõng sau lưng, một cục ôm trước ngực đi bán rong cho khách đợi tàu. Hắn đi lại phía tôi, tôi đã hơi bực, lên tàu có quạt điện, ai mua làm gì thêm lnh kỉnh, hắn lại gần nhìn tôi chăm chắm:

- Bác còn nhớ em không?


Tôi giật mình nhìn lại hắn, thấy hơi quen à phải rồi, tôi đứng dậy đập tay lên vai hắn.

- Tố Hữu phải không?

Lão ớ mặt ra như tượng, sau lão cười xoà, ôm lấy tôi đấm vào lưng thùm thụp
:

- Bác vẫn hóm.

- Thế tên lão là Tố Hữu thật à? Láo thật! - Ông Tiến chen vào

- Ông cứ để tôi kể tiếp: Thế rồi lão túm tay tôi:

- Bác đi S6 chứ gì? Còn lâu! Đi uống nước với em.

- Nước nôi cái gì. Từ sáng tới giờ bán được mấy cái quạt, mỗi chiếc mấy ngàn? Mà đòi chiêu đãi
?

- Cũng tùy, bán cho ta thì 3 ngàn, còn cho Tây thì không kể.

- Mười đô à?

- Ôi giời
! Thằng Mỹ khôn bỏ mẹ, một đô nó còn trợn mắt: ”lắt lắt”, nó toàn trả tiền ta, năm ngàn là cùng. Vào quán nước tôi mới hỏi thực lão:

- Này mình hỏi thật, ông bỏ nghề đi xin, sang nghề này có kiếm hơn không?

- Chẳng hơn đâu bác ạ! Phải bỏ vốn mua lá, phải đan, mà cũng mấy tháng nắng, chứ rét mà đi bán quạt có mà dở hơi.

- Mùa đông lại về đi xin hả?

- Không! Lão trả lời vậy rồi ngồi im, mắt ươn ướt buồn.

- Thế lão là ăn mày à? Sao lại quen ông?

- Chuyện là thế này. Ông Thân nhắp thêm ngụm trà rồi kể tiếp:

- Hồi năm ngoái, một hôm tôi vừa pha ấm trà hương, con nó ở Hà Nội gửi về, chè Thái chính hiệu, còn ngon hơn thứ tôi với ông đang uống đây, thì thấy một lão ăn xin, chân đi khập khiễng, chống gậy, vắt vai chiếc bì xác rắn, chưng trong là gạo. Vào sân, lão bỏ chiếc nón cời xuống, lão cứ ngập ngừng không nói gì.

- Tôi vừa pha nước đây! Để đồ ngoài đó vào uống tôi chén nước đã.

Lão rón rén vào, còn nhìn lại xem vết chân có làm bẩn nền gạch hoa không. Tôi phải kéo tay ấn lão mới chịu ngồi vào ghế nệm.

- Tôi đã mời ông vào, thì tôi coi ông là khách, ông cứ tự nhiên đừng ngại.


Lão bê chén trà ngi hương, rồi mới nhấp từng tí, nga mặt nhìn trần nhà. Tôi chêm nước hai, rót vào chén cho lão.

- Trà ngon quá! Hình như bác ủ sen, ủ sen chứ không phải thứ trà sen miền Nam đâu. Em cứ tưởng chỉ cụ Nguyễn mới uống thứ trà cầu kỳ này.

- Ông biết cụ Nguyễn sao?

- Dạ! Không dám! Em cũng chỉ nghe. Bác cho phép, em xin thú thực với bác, em đã nghe tiếng bác, nên hôm nay tìm đến, xin được gặp bác, lúc đầu em cũng ngại, nhưng bây giờ thì...

- Thì sao?

- Thì em tin lời họ nói.

- Thôi đừng vòng vo nữa, tôi giúp gì được cho ông nào?

- Dạ! Cũng chẳng có gì, chỉ xin được hầu chuyện bác.

- Ô, thế thì ta làm ly rượu để đàm đạo cho thoải mái, hình như ông cũng rành văn chương.
Tôi mở tủ lấy chai rượu, hai cái ly.

- Nào xin nâng ly mừng buổi gặp mặt.


Trông lão vừa lúng túng, vừa ngỡ ngàng.

- Bây giờ ông hỏi gì?

- Bác có biết bác Tố Hữu còn sống hay đã chết?

- Cụ ấy vẫn sống, tuy đã 82 nhưng nghe nói còn khoẻ.  

- Có phải bây giờ
bác ấy vẫn là nhà thơ cách mạng lớn nhất phải không ạ?

- Lâu nay sách vở vẫn nói vậy.

- Em thì ch
ng nhiều sách bằng bác, nhưng em cũng có tập ”thơ Tố Hữu”, và em cũng thuộc nhiều.

- Thế là tôi thua ông rồi! Mấy trăm cuốn sách lại toàn sách lăng nhăng, mà không có tập thơ Tố Hữu.

- Bác hóm thật. Em hỏi thật bác, bác thấy thơ Tố Hữu có hay không ạ?

- Nói thật với ông, thơ nó như đàn bà con gái vậy, chẳng thể so sánh mặt trái xoan đẹp hơn mặt ch
điền, mắt lá răm đẹp hơn mắt hạt nhãn. Đại khái là tuỳ, mỗi thời mỗi khác, ai thích kiểu nào thì cho kiểu đó đẹp. Ông bảo con Thị Nở của ông Nam Cao nó xấu đến thế, mà thằng Chí Phèo khi nó yêu nó vẫn cho là đẹp, bởi lúc ấy nó cần thị để yêu. Thơ cũng vậy, ông thích thơ tôi thì ông bảo thơ tôi hay, mà có khi ông chỉ thích tôi thôi, ông cũng khen thơ tôi hay. Có đúng không nào?

- Bác hóm thật! Bác nói vậy thì em đành chịu.

- Thôi, nhà tôi đi vắng, tôi chẳng gi
đồng tiền nào, ông chờ tôi xuống nhà, xúc gửi ông bát gạo gọi là, hôm nào chủ nhật, ông thích thì vào tôi nói chuyện đừng ngại.

- Ây chết! Bác đừng làm thế, em vào đây không phải để xin bác, chỉ muốn gặp bác hỏi đôi điều, bây giờ bác phải đi làm, xin được lần sau bác cho phép. Nói rồi lão đi.

- Đấy! Tôi gọi lão là Tố Hữu là vì vậy, nào tôi c
ó kịp hỏi tên lão đâu. Từ đấy chẳng thấy lão trở lại, và tôi cũng quên, bởi cũng chỉ là chuyện tầm phào. Vừa rồi gặp lại lão ở Vinh. Mà cũng lạ ông ạ, chính cái hôm lão vào nhà tôi thì ngay hôm sau ti vi đưa tin Tố Hữu mất. Ngồi đối diện nhau ở bàn nước, tôi hỏi lão:

Này tôi hỏi thật, sao ông bỏ nghề ăn xin? Lão ngồi lặng một lúc rồi mới trả lời tôi.

- Sau cái hôm em vào bác, suốt mấy đêm liền không ngủ, em thấy nhục quá, không thể bỏ cái con
người, để làm con vật mãi được.

- Làm sao? Hôm ấy tôi có điều gì xúc phạm tới ông?

- Không phải thế! Chính bác làm em tự xấu hổ, vì bác coi em là con
người, lúc đó em mới thấy mình là con người thực, còn lâu nay đi xin, em phải đi tập tễnh, giả giọng rên r như sắp chết,và họ bố thí năm trăm hay một ngàn, có ai nhìn mặt em đâu, mà em cũng đã là một thằng lính, gần mười năm ở Trường Sơn, cũng vào sinh ra tử, nào có kém cạnh ai, thế mà... Nói tới đó lão ngừng hẳn, hai giọt nước mắt hiếm hoi ứ ra ở khoé mắt đỏ quạch. Ông ạ, lúc đó tôi cũng lặng người, có cái gì chèn ở ngực tôi khó thở. Một thằng lính 10 năm ở Trường Sơn, bây giờ xách bị đi ăn xin. Khốn nạn! Thật khốn nạn! Tôi điên tiết nắm lấy tóc hắn.

- Làm sao lại đến nông nỗi này, thật nhục nhã!

-
Vâng! Bác có đánh có chửi, em cũng đành chịu, nhưng thời thế nó vậy, mỗi kẻ một số phận riêng của mình, cũng như cái sống cái chết ở chiến trường, biết làm sao được.

Chuyện thì dài, nhưng đại khái là thế này: à, bác cũng lạ là một thằng ăn mày như em lại thuộc thơ Tố Hữu, cũng biết văn chương cụ Nguyễn chứ gì? Ngày xưa nhà em cũng khá giả, em cũng được học hết cấp ba rồi mới vào lính, em biết đàn hát, biết vẽ, cũng tập tễnh làm thơ, thế rồi em cũng mò được cái chức chính trị viên phó đại
đội, phụ trách văn hoá văn nghệ. Sau chiến thắng 75 đơn vị về Huế, em ở một gia đình công giáo ở Phú Cam. Nhà chỉ có hai mẹ con, Lựu có khuôn mặt thánh thiện, đôi mắt như mẹ Ma-ri-a. Em cũng chỉ nghĩ đơn giản lương giáo gì thì cũng là người Việt Nam, Bác Hồ kêu gọi lương giáo đoàn kết, không phân biệt đảng phái hễ là người Việt Nam thì là phải yêu nước đánh giặc. Hình như trong lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến Bác nói vậy. Anh của Lựu cũng đi giải phóng đã hy sinh. Thế thì có vấn đề gì đâu mà phân vân. Thế mà rắc rối và đời em thành khốn nạn. Lão bê cốc bia uống ừng ực một hơi, đặt mạnh chiếc cốc xuống bàn, mặt đỏ lên như gấc, lão kể tiếp:

 - Bà mẹ đi bán hết cả ngày, Lựu ở nhà làm hến, đôi cánh tay trắng nõn nà, chiếc áo lót bó sát tấm lưng tròn lẳn, bác bảo một thằng đàn ông gần ba mươi tuổi, tám chín năm ở rừng, có đợt hàng năm không gặp một bóng đàn bà, thì làm sao chịu nổi, thế là chúng em yêu nhau, và chúng em có con. Lựu thì đi trình cha, em thì đi báo cáo đơn vị.
Bố mẹ em thì chết cả rồi, em sẽ để Lựu ở đây với mẹ, cho có mẹ có con đỡ cô quạnh, sau khi cưới nhau. Ở đơn vị về, em đang nẫu cả ruột, thì thấy Lựu khóc sưng cả mắt. Cha doạ: Nếu lấy Việt cộng cha sẽ rút phép thông công, kiếp sau phải đày đoạ dưới địa ngục, còn em thì chờ quyết định của trung đoàn. Ba ngày sau anh Hữu chính trị viên đại đội gọi em lên bảo:

Trung đoàn đặt cho đồng chí hai hướng, một là:

Bỏ cô Lựu, thì tiếp tục công tác, và chuyển đồng chí lên đại đội hai, hai là khai trừ Đảng và giải ng
ũ.

- Thế còn con tôi?

- Con nào? Đến thế rồi cơ ư? Chết chết! Thế này thì đại đội mất quyết thắng.

Suốt đêm em ngồi bên
dòng sông Hương, dòng nước lững lờ trôi, vài con thuyền xuôi ngược, giọng nam ai loang trên mặt sông, da diết buồn. Em gỡ đôi phù hiệu thiếu uý cầm trên tay, thôi thế là hết một thời chinh chiến, một thời vẻ vang của người lính! Em lia mạnh xuống dòng sông, ngôi sao bạc cứ dập dềnh, long lanh dưới dòng nước, trôi mãi, trôi mãi về phía biển. Sáng hôm sau em lên trung đoàn nhn kỷ luật, đồng chí chính uỷ hỏi:

- Đồng chí nghĩ kỹ chưa?

- Thưa chính uỷ tôi đã nghĩ kỹ, nếu tôi bỏ cô ấy, thì có thể tôi thành kẻ giết người, không chỉ một mà ba mạng, thà tôi về làm người dân thường, còn hơn mang tội và ân hận suốt đời. Thế là xong. Không hiểu sao lúc ấy lòng em thanh thản lạ. Về nhà hai đứa quỳ xuống lạy mẹ để xin bà ra đi. Vì làm sao những con chiên ngoan đạo lại chịu được điều tiếng thị phi của người đời. Mẹ khóc nhưng cũng đồng ý cho chúng em đi. Cuộc chia ly chắc bác là nhà văn bác cũng tưởng tượng được là buồn như thế nào rồi, em chẳng phải kể làm gì.

- Thế về quê sao lại ra nông nỗi này?

- Quả là phúc bất trùng lai, hoạ vô đơn chí, mới về thì cũng lắm chuyện, nhưng em còn gì nữa để mà mất, đã liều thì ba bảy cũng liều, điều tiếng rồi cũng qua. Dựng vài gian nhà tre trên nền nhà cũ của ông bà, thôi thế là cũng yên phận, nào ngờ tai hoạ lại ập xuống, nhà em sinh cháu, đứa con gái không bằng con mèo con, phần vì buồn đau thương mẹ, thương chồng, phần vì vất vả kiếm sống, Lựu khóc suốt nên ảnh hưởng thai nhi, chỉ được dăm ngày là cháu mất. Cô ấy rũ ra như tàu lá, mất gần một năm cô ấy mới lại người. Cô ấy lo là Chúa phạt, nên bắt em lập bàn thờ Chúa.
thì có sao, em phải sang mãi xã bên mới mua được tượng Chúa, ngày ngày cô ấy cầu nguyện, em cũng thành tâm quỳ lạy, may ra còn đấng linh thiêng nào cứu rỗi. Lựu có thai, lần này thì em gánh vác hết việc nặng nhọc, cố làm để có mà tẩm bổ cho Lựu. Lựu béo ra, đẹp ra, chúng em sung sướng, thấp thỏm chờ ngày sinh nở, rồi ngày ấy cũng đến, để chắc chắn em chở Lựu lên viện. Họ bảo con to phải mổ. Em thì chẳng có tiền thành cứ dềnh dàng mãi chiều mới mổ, nhà em mất máu nhiều, máu em lại khác nhóm, loay hoay mất một ngày em mới đủ tiền mua máu. Lúc ấy Lựu đã kiệt, và cô ấy lặng lẽ ra đi!

Em bồng đứa con đỏ hỏn trên tay thất thểu về nhà như người mất hồn.

- Làm sao ông nuôi nổi cháu?

- Ngày ngày em bồng cháu đi khắp làng
xin sữa, rồi từ làng này sang làng khác, bố con em thành kẻ hành khất.

- Thế ông bỏ nhà à?

- Ít ngày em về một lần, căn nhà hoang vắng l
ạnh lẽo, lòng như điên dại. Em nhìn lên Chúa đang treo mình trên cây thánh giá, tim Chúa rỉ máu. Còn nỗi đau nào hơn! Em phá tất, phá nhà phá cửa, phá chiếc giường duy nhất mà chúng em đã có những ngày hạnh phúc. Em như

một thằng điên, em bồng con ra đi lang thang hết vùng này sang vùng khác, tối đâu là nhà, ngả đâu là giường.

- Bây giờ cháu thế nào?

- Chuyện thì dài, hơn hai mươi năm rồi còn gì. Đời em coi như là hết, nhưng em phải lo cho cháu thành người, bây giờ cháu đang học năm cuối Đại học Y Thái Bình.

- Ông giỏi quá!

- Giỏi giang gì đâu bác. Cháu bảo phải thành bác sĩ để cứu giúp người nghèo khỏi chết oan như mẹ nó, nhưng thời thế này cũng khó bác ạ, chẳng biết rồi cháu nó làm nên trò trống gì không!

Tiếng loa trên ga đã gọi khách ra tàu, lão xách đồ đưa vợ chồng tôi lên tàu. Khi con tàu chuyển bánh tôi ló cổ ra cửa sổ, vẫn thấy lão cõng cục quạt kè đứng một mình trên sân ga. Tôi cầm chiếc quạt lão ấn vào tay tôi lúc tôi bước lên tàu, chiếc quạt thì nhẹ mà lòng tôi thì nặng trĩu.

-
Đấy! Lai lịch cái quạt kè tôi đã kể hết với ông, bây giờ thì tôi biếu ông, người đã từng là sĩ quan cao cấp trong quân đội, đã từng là lính Trường Sơn.  

X.C

(185/07-04)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HOÀNG QUỐC HẢI              Truyện ngắn lịch sửNăm Nhâm Thân (1392) mùa hạ, thượng hoàng Trần Nghệ Tông xuống chiếu “CẦU LỜI NÓI THẲNG”Thường trong nước mỗi khi có đại sự, nhà vua ban chiếu cầu hiền. Mục đích tìm người tài cho nước.

  • KIỀU VƯỢNGĐêm giữa thu. Hà Nội se lạnh. Sao chới với nhưng mây vẫn vũ làm nền trời như khô khốc, nhạt nhòa. Một hồi còi tàu rú dài như thả thêm vào đêm luồng khí lạnh. Quang nhìn đồng hồ sân ga dã quá mười hai giờ khuya.

  • CAO HẠNHTôi sinh ra ở làng quê, lớn lên cũng ở làng quê. Tôi là hạt máu đỏ rơi xuống bùn đất mọc lên một thằng người cùng với ngọn cỏ lá rau, cây lúa và những sinh linh khác. Tôi cùng chịu đựng chia xẻ với chúng ngọn gió Lào cát trắng và những trận mưa dầm dề của xứ miền Trung khắc nghiệt.

  • HỒ ANH THÁI Tác giả thấy cần phải tóm tắt chuyện cô bé quàng khăn đỏ trước, rồi mới kể tiếp phần hậu cô bé quàng khăn đỏ. Con sói đến lừa bà cô bé, nuốt sống bà, rồi mặc váy áo của bà, trùm khăn giả vờ làm bà. Cô bé về nhà, thấy bà rởm mà không biết, cứ hỏi vớ hỏi vẩn sao tai bà to thế, sao mắt bà to thế, sao mồm bà to thế. Sốt ruột. Con sói bèn nuốt chửng luôn cô bé. Nhưng rồi quần chúng tiến bộ tập hợp lại đấu tranh, con sói phải nôn cả bà lẫn cháu ra, hứa cải tà quy chính. Từ đây bắt đầu phần hậu cô bé quàng khăn đỏ…

  • PHẠM XUÂN PHỤNGHọ như không còn trẻ. Người lớn tuổi hơn có khuôn mặt thanh thản vì đã giãn mềm những nếp nhăn. Người trẻ tuổi khuôn mặt nhuốm già bởi màu từng trải và những nét khắc chán chường.

  • MAI HUY THUẬTNằm cuộn tròn trong cái rọ lợn Cuội mới có thì giờ ngẫm nghĩ về cái thân phận của mình. Cả cuộc đời dối trá, lừa gạt bây giờ bị tù hãm sau mấy cái nan tre tưởng như mong manh thế mà càng cựa quậy càng trầy da rách áo, không thể nào thoát được.

  • NGUYỄN VĂN VINH Thường thường, mỗi sớm tôi và các bạn gặp nhau ở quán cà phê vỉa hè. Ngồi vệ đường, không tiếng nhạc quấy phá phút tĩnh tâm để ngẫm ngợi sự đời, quả thú vị! Tôi biết các loại quán đều tiêu phí thời giờ của mình, nhưng quán cà phê ít tốn, ít nguy hiểm hơn quán bia ôm và các toan tính, bon chen trong vòng danh lợi gươm đao nên tôi không bỏ uống cà phê buổi sáng, ngày mình giết một tí, lại được chuyện vãn với nhau: nào thời sự, tin tức trên trời dưới biển, cũng vui!

  • LINH CHIKhi chỉ mới là giọt máu, sự kết hợp của hai nhiễm sắc thể XY bám vào dạ con của mẹ, nó đã không được công nhận. Chào đời, mẹ con nó ở với ông bà ngoại cùng các cậu, các dì cho đến năm nó tròn bảy tuổi. Nhà ngoại nó ở ven triền núi của vùng đồi miền trung du hẻo lánh độ chừng vài ba chục nóc nhà rải rác trên mấy quả đồi đầy hoa sim, hoa mua tím. Chiều chiều nó thường hay tha thẩn trước sân nhà ngắm nhìn những đàn chim bay về tổ, thả hồn theo những đám mây màu cánh vạc đùn lên phía sau dãy núi đối diện nhà ngoại và tưởng tượng, ước ao…

  • TRẦN CHINH VŨAnh nghĩ là mình có thể ngủ được trong đêm nay - ngủ ngon là khác nữa - Đêm qua anh đã ít ngủ rồi - Hơn nữa, cùng với cậu em trai anh lại vừa có cuộc đi chơi đêm ở công viên Đầm Sen, đến muộn mới về. Vậy mà cho đến lúc này, đã qua nửa đêm được ít phút, mắt anh vẫn cứ trơ ra, cứ như thể nó chưa biết khép lại bao giờ.

  • ĐÔNG TRIỀUMười hai giờ đêm.Tôi bước ra khỏi rào lưới sắt còn ngoảnh lại nhìn căn trọ, nơi cửa sổ vẫn phụt ra luồng sáng trắng bởi đèn điện. Tất cả đã im lặng. Tiếng cót két của đôi cánh cửa gỗ mà người thiếu phụ vừa khép lại hòa vào nhịp rơi lộp độp của những giọt sương trên lá, tiếng côn trùng trỗi lên cùng thanh âm mà con chim cú đâu đây vẫn bỏ tiếng rúc đều đều nghe rợn người.

  • PHẠM NGỌC TÚY“Ngày...tháng...nămDòng nhắn tin trên báo cho em biết rằng em đã tìm thấy anh. Cuối cùng thì chúng mình cũng nhận ra nhau. Anh thân yêu. Hôm nay trời không mưa và không nắng. Từ cửa phòng em nhòm ra có một cây trạng nguyên. Cây này nhô lên cao giữa khoảng trời xanh hiếm hoi. Những chiếc lá đến mùa, đỏ thắm màu xác pháo. Nó là cây hoa độc nhất ngoài cửa phòng em.

  • NGUYỄN BẢNHắn đến tôi, mặt thẫn thờ ngơ ngác như người vừa mất của. Tôi hỏi ngay:- Có chuyện gì vậy?- Không, không có chuyện gì.

  • ĐÔNG LA       Sài Gòn mùa mưa, trời lúc nào cũng âm u. Những tán cây sẫm hơn, không khí nóng rát của những tháng cuối mùa khô đã được làm nguội lại, dịu mát. Mấy ngôi nhà cao lênh khênh dường như chỉ cần kiễng chân lên một chút là có thể gội đầu được trong những đám mây sũng nước, là là bay trên đầu.

  • ĐÀO PHONG LAN         Tôi là đứa con gái duy nhất của cha mẹ, và trời cũng ban cho tôi một nỗi bất hạnh để tương xứng với niềm hạnh phúc của một đứa con chắc chắn được cưng chiều: Tôi bị liệt hai chân từ bé.

  • MAI HUY THUẬTCon tàu Thống nhất nhả Văn xuống ga Huế vào một trưa mưa tầm tã khiến Văn chợt thấm thía một câu thơ Tố Hữu:...“ Nỗi niềm chi rứa Huế ơiMà mưa xối xả trắng trời Thừa Thiên?”...

  • NGUYỄN VĂN THANHSau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, tôi không ngờ được Ngọ hỏi làm vợ. Không giống như những cô dâu khác, ngày tôi về nhà chồng có dắt theo một đứa con riêng. Tên nó là Hòa. Ngọ rất thương yêu hai mẹ con tôi. Không có gì đáng trách anh ấy dù cuộc hôn nhân của chúng tôi không bình thường.

  • NGUYỄN LÊ VÂN KHÁNHTôi xa nhà trọ học thành phố khác. Dịp nghỉ ngắn ngày không về nhà được, tôi đón xe về thị trấn men con nước nhánh sông lớn về nhà ngoại. Từ ngoài ngõ con Bơ sủa váng, Vinh chạy ra ôm bụi chè tàu nơi đầu bến nước, gọi mạ ơi, Sương về.

  • NGUYỄN HÙNG SƠN          Một buổi chiều cuối tháng ba trong lúc ngồi bón cháo cho chồng, bà Loan nhận thấy hôm nay Hào, chồng bà có những biểu hiện khác thường. Ông có vẻ suy nghĩ, ăn uống uể oải.

  • LỆ THANHBé Khánh Hạ - đứa con gái duy nhất của chị đã đi! Chiếc lá xanh độc nhất trên thân cây khô héo, khẳng khiu đã lìa cành. Ngọn lửa cuối cùng trong đêm dài trơ trọi của chị đã tắt ngấm trong bỗng chốc. Chị tưởng rằng mình sẽ không thể sống nổi trên cõi đời héo hắt này nữa.

  • HOA NGÕ HẠNHHọ Nguyễn ở Trung Lộc quê gốc huyện Lôi Dương, phủ Thọ Xuân, Thanh Hóa. Gia phả ghi rõ, ông tổ của dòng họ theo chân Chánh đô An phủ sứ Phạm Nhữ Dực vào khai khẩn đất Thăng Hoa năm 1402. Ban đầu họ Nguyễn định cư tại Hương Ly. Đến đời sau, một nhánh trong tộc chuyển hẳn lên Trung Lộc, nằm ở thượng lưu sông Thu Bồn.